Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định Cán bộ điều tra là người tiến hành tố tụng, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra với những quy định mới cụ thể, chặt chẽ, mở nút thắt trong điều tra vụ án hình trước đây chưa được tháo gỡ.
1. Sự hình thành chức danh pháp lý Cán bộ điều tra
Trước khi có BLTTHS năm 2015, Cán bộ điều tratrong thực tế đã tồn tại là cán bộ, chiến sĩ của Cơ quan điều tra tham gia vào một số hoạt động điều tra vụ án hình sự mang tính chất “sự vụ”, nhưng không quy định trong tố tụng hình sự là người tiến hành tố tụng, vì vậy gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra.
Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày 07/7/2014 của Bộ Công an không quy định riêng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân mà quy định chung nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra. Theo Điều 29 thì “cán bộ điều tra phải thực hiện đúng, đầy đủ các văn bản chỉ đạo của Đảng, quy định của pháp luật và của Bộ Công an có liên quan đến công tác điều tra hình sự”; phải học tập nâng cao trình độ chính trị, pháp luật…nghiệp vụ điều tra để hoàn thành nhiệm vụ, phải thực hiện đúng, đầy đủ các chỉ thị, mệnh lệnh, quyết định của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công trực tiếp chỉ đạo điều tra vụ án; giúp việc cho Điều tra viên trong thực hiện các hoạt động điều tra và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra về hành vi của mình. Thông tư còn quy định: Trách nhiệm giữ bí mật tin tức, tài liệu điều tra (Điều 30). Những việc cán bộ điều tra không được làm (Điều 31). Đây là những quy định ban đầu chưa cụ thể, chi tiết, vì thế đã dẫn đến bất cập trong quá trình thực hiện.
Khắc phục những hạn chế trong thực tế của hoạt động điều tra, BLTTHS năm 2015 quy định Cán bộ điều tra là một chức danh pháp lí của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, tại khoản 2 Điều 34 và khoản 2 Điều 35 với tư cách là người tiến hành tố tụng, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Trong Bộ luật này, Cán bộ điều tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong cả hai giai đoạn tố tụng: giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra là quy định mới tại Điều 38 BLTTHS năm 2015, theo sự phân công của Điều tra viên: ghi biên bản lấy lời khai, ghi biên bản hỏi cung và ghi các biên bản khác khi Điều tra viên tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm và điều tra vụ án hình sự; Giao, chuyển, gửi các lệnh, quyết định và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; Giúp Điều tra viên trong việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, hồ sơ vụ án và thực hiện hoạt động tố tụng khác. Cán bộ điều tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên về hành vi của mình[1].
Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra tiến hành hoạt động điều tra theo thời hạn điều tra được quy định tại Điều 172 BLTTHS năm 2015: không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọngvà đặc biệt nghiêm trọng; trường hợp cần gia hạn điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sátchậm nhất 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra; việc gia hạn điều tra cũng được quy định rất chặt chẽ [2].
Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan điều tra là thực hiện những hoạt động không phức tạp, mang tính chất trợ giúp cho Điều tra viên trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Cán bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 và Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm Cán bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khác với nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra. Cán bộ điều tra thuộc cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều ra do Thủ trưởng cơ quan phân công theo từng vụ, việc. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cán bộ điều tra ở các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng không giống nhau, có thể phân thành 2 nhóm như sau:
Nhóm 1 gồm: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển và Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Đối với Cán bộ điều tra của nhóm 1 có 4 nhiệm vụ, quyền hạn: Một là, Lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lấy lời khai của những người có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm; Hai là, Lập hồ sơ vụ án hình sự; Ba là, Hỏi cung bị can; lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng, bị hại, đương sự; Bốn là, Tiến hành khám nghiệm hiện trường; thi hành lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án. Lưu ý: Cán bộ điều tra khi thực hiện nhiệm vụ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình; cấp trưởng, cấp phó không được ủy quyền cho Cán bộ điều tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (khoản 4, 5, Điều 39 BLTTHS năm 2015). Cán bộ điều tra nhóm này thực hiện một số hoạt động điều tra độc lập (hỏi cung, lấy lời khai, lập hồ sơ vụ án) đòi hỏi tính chủ động cao. Các hoạt động điều tra của Cán bộ điều tra nhóm này được thực hiện trong 2 loại thời hạn: 01 tháng (đối với tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, chứng cứ, lai lịch người phạm tội rõ ràng) và 7 ngày (đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp).
Đối với nhóm này, Cán bộ điều tra được thực hiện một số hoạt động điều tra như hỏi cung, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường…tương tự như một số nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên, vì vậy đòi hỏi họ phải trang bị cho mình đầy đủ kiến thức chuyên môn, khả năng làm việc chủ động, độc lập, quyết đoán để xử lý đảm bảo chính xác trong thời gian nhanh nhất, mà vẫn đạt chất lượng, hiệu quả.
Nhóm 2 gồm: các cơ quan của Công an nhân dân và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm hạn chế hơn so với nhóm 1, họ chỉ thực hiện các hoạt động về thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, một số hoạt động điều tra ban đầu, sau đó chuyển ngay cho cơ quan có thẩm quyền điều tra trong thời hạn 7 ngày. Cụ thể có 5 nhiệm vụ, quyền hạn: Một là, Lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lấy lời khai của những người có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm; Hai là, Lập hồ sơ vụ án hình sự; Ba là, Lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người làm chứng, bị hại, đương sự; Bốn là, Tiến hành khám nghiệm hiện trường; thi hành lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án; Năm là, Giao, gửi các lệnh, quyết định và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này. Cán bộ điều tra các cơ quan này khi được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Cấp trưởng, cấp phó không được ủy quyền cho Cán bộ điều tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (khoản 3, 4, Điều 40 BLTTHS năm 2015).
Cán bộ điều tra là một chức danh pháp lí trong tố tụng hình sự, vì vậy tiêu chuẩn bổ nhiệm, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm cũng được quy định rất chặt chẽ trong Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015. Khoản a, Điều 59 quy định: “Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 46 của Luật này có thể được bổ nhiệm làm Cán bộ điều tra để giúp Điều tra viên thực hiện một số hoạt động điều tra hình sự”.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cấp, thu hồi Giấy chứng nhận Cán bộ điều tra thuộc Quân đội nhân dân do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong Công an nhân dân do Bộ trưởng Bộ Công an quy định; ở VKSND tối cao do Viện trưởng VKSND tối cao quy định (điểm b, khoản 1, Điều 59 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015).
Cán bộ điều tra là lực lượng đông đảo thực hiện hoạt động tố tụng trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự, là đội ngũ có vai trò quan trọng trong đấu tranh chống tội phạm. Thực hiện tốt quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình, Cán bộ điều tra sẽ góp phần tích cực cho đấu tranh phòng, chống tội phạm./.
Nguồn: Tạp chí Kiểm sát
[1] Nguyễn Thị Mai Nga, Một số vấn đề cần quan tâm đối với công tác kiểm sát về chủ thể điều tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong điều tra vụ án hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 03(02)/2016.
[2] Xem Điều 172 BLTTHS năm 2015.