Ths.Ls Hoàng Văn Hướng
(Trưởng VPLS Hoàng Hưng – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội)
Khi bàn về vai trò, ý nghĩa của hoạt động thi hành án dân sự (THADS), nguyên Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải cho rằng: “Thi hành án dân sự là công việc có nhiều khó khăn, phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì kỷ cương phép nước. Việc thi hành án tác động trực tiếp đến các lợi ích vật chất và tinh thần của người phải thi hành án và người được thi hành án, đến danh dự, uy tín của người này và gia đình họ”.
Cùng quan điểm với nguyên Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Giáo sư James F Harrigan, chuyên gia tư vấn pháp lý cho cơ quan thi hành án San Francisco, California, Hoa Kỳ cho rằng: “Việc thi hành các bản án của quốc gia là yếu tố quan trọng nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Tất cả các hệ thống pháp luật đều dựa vào các Tòa án để giải thích pháp luật bằng cách áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp liên quan đến cá nhân, tổ chức và nhà nước. Việc thực hiện các quyết định đã xem xét của Tòa án đạt được bằng nỗ lực pháp luật và sự tham gia của các bên tranh chấp chỉ được công nhận trong việc thi hành các bản án của Tòa án được đưa ra để giải quyết các tranh chấp. Việc thi hành đó, tiếp theo quá trình, là một phần không kém quan trọng. Nếu bản án không được thi hành, có nghĩa pháp luật mà bản án căn cứ vào không có ý nghĩa trên thực tế. Vì lý do đó, có một khái niệm riêng giữa hệ thống luật chung và Luật Dân sự khác là bản án phải được coi là chung thẩm, có giá trị ràng buộc, và có thể thi hành ngay sau khi ban hành, và việc thi hành án là quyền ưu tiên cao nhất của một hệ thống pháp luật”.
Với vai trò quan trọng như vậy, công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng phải đảm bảo tính chính xác, công bằng, đúng pháp luật. Trải qua hơn 76 năm không ngừng xây dựng và phát triển, đến nay hệ thống THADS đã có bước phát triển mạnh mẽ, thể chế THADS ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền công dân, quyền con người, khẳng định vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Ngoài những kết quả đã đạt được, cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều sai phạm trong công tác thi hành án dân sự, trong đó có những vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân. Các dạng vi phạm của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên; những vi phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động thi hành án dân sự hiện nay; thực trạng, nguyên nhân, trách nhiệm hình sự đối với những sai phạm đã được các bài viết nêu trên chỉ ra. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý hình sự đối với sai phạm trong thi hành án dân sự.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự:
Pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật (XLVPPL) trong thi hành án dân sự là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vì vậy, các nguyên tắc của pháp luật nói chung được áp dụng cùng những nguyên tắc đặc thù của pháp luật về xử lý vi phạm trong THADS. Hoàn thiện pháp luật XLVPPL trong thi hành án dân sự dựa trên cơ sở thể chế hóa các quan điểm tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị để xây dựng hệ thống pháp luật XLVPPL trong THADS đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; góp phần xây dựng nền tư pháp Việt Nam trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ Quốc. Theo đó, pháp luật về XLVPPL trong THADS phải đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí về tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp, khoa học, thực tiễn, công khai, minh bạch và dân chủ cả về nội dung và hình thức thể hiện. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện pháp luật XLVPPL trong THADS cần phải đưa ra các chế tài đủ mạnh để phòng ngừa, răn đe và ngăn chặn hành vi sai phạm trong THADS, đặc biệt là các hành vi cản trở, chống đối việc thi hành các bản án, quyết định dân sự, các hành vi xâm phạm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động thi hành án dân sự.
- Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự và các luật liên quan đến thi hành án dân sự:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tòa án. Một bản án, quyết định được tuyên đầy đủ, rõ ràng, chính xác, khách quan, đảm bảo tính công bằng, phù hợp thực tế, là cơ sở để đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự, không gây khó khăn, cản trở, sai phạm trong hoạt động THADS. Vì vậy, các cấp Tòa án cần phải:
- Nâng cao năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp cho thẩm phán; thường xuyên mở lớp đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức các cuộc họp rút kinh nghiệm, khen thưởng, xử lý kỷ luật kịp thời;
- Xử lý trách nhiệm của thẩm phán trong việc ra bản án, quyết định nhưng bị sửa, bị hủy, chậm chuyển giao hoặc chậm giải thích bản án, quyết định.
Thứ hai, cần sử đổi Luật Thi hành án dân sự theo hướng bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án, tránh tạo điều liện cho người thi hành án tẩu tán tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khoản 5 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự”. Tuy nhiên, trong thực tế việc người được thi hành án tự mình xác minh điều kiện của người phải thi hành án là rất khó khăn và hầu như không đạt kết quả, vì thủ đoạn che giấu tài sản, thu nhập của người phải thi hành án ngày càng trở nên tinh vi, phức tạp và khó xác định hơn, như: Che giấu các nguồn thu nhập, tẩu tán tài sản bằng nhiều hình thức khác nhau, thay đổi chỗ ở liên tục nhưng không có sự trình báo với chính quyền địa phương… Đặc biệt khi người được thi hành án tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án tại các cơ quan Nhà nước, các cơ quan hữu quan khác thì việc yêu cầu các cơ quan đó cung cấp thông tin lại càng khó khăn, bởi các cơ quan đó cho rằng mình không có trách nhiệm phải cung cấp những thông tin cho người dân mà họ chỉ cung cấp cho những cơ quan Nhà nước khi có yêu cầu bằng văn bản. Hoặc như theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật thi hành án dân sự: “Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án”. Hiện nay đang có 02 cách hiểu khác nhau về vấn đề này, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Hết thời gian tự nguyện thi hành án người phải thi hành án có điều kiện thi hành án không tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên phải ban hành quyết định cưỡng chế ngay và tổ chức cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Quan điểm thứ hai: Pháp luật chưa quy định cụ thể về thời gian ban hành quyết định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế (trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật thi hành án dân sự), do đó Chấp hành viên căn cứ vào tình hình thực tế việc tổ chức thi hành án để xử lý vụ việc thi hành án.
Do có sự hiểu, nhận thức về nội dung này chưa thống nhất, nên có vụ việc hết thời gian tự nguyện thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi hành, nhưng chưa xác minh xong về điều kiện thi hành án nên Chấp hành viên chưa áp dụng biện pháp cưỡng chế, bị coi là chậm tổ chức cưỡng chế thi hành án; ngược lại, có Chấp hành viên để hồ sơ, vụ việc kéo dài vài tháng, đến vài năm không áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc các biện pháp cưỡng chế.
Thứ ba, nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động thi hành án dân sự. Luật sư là những người am hiểu pháp luật, thường có kinh nghiệm trong việc ký kết hợp đồng, giải quyết tranh chấp cũng như thi hành án dân sự, vì vậy, sự tham gia của luật sư vào giai đoạn thi hành án có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thi hành án. Ngoài các quy định của Luật Luật sư về nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm của luật sư; thì tại Luật Thi hành án dân sự, cần bổ sung điều luật ghi nhận, quyền hạn của luật sư trong hoạt động thi hành án dân sự: như quyền được tham gia vào toàn bộ hoạt động thi hành án; quyền làm việc trực tiếp và bằng văn bản với cơ quan thi hành án; quyền xác minh điều kiện thi hành án…
Thứ ba, áp dụng kịp thời, phù hợp các biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm bảo toàn nguyên vẹn tình trạng của tài sản thi hành án, tránh việc các cá nhân, tổ chức tẩu tán, phá hoại, hủy hoại tài sản, dẫn đến nhiều sai phạm trong việc thi hành án. Khi sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự, các nhà làm luật cần thừa nhận quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho đương sự không cần thiết phải gắn liền với yêu cầu khởi kiện vụ án, bởi lẽ, theo quy định hiện nay, trong nhiều trường hợp sẽ làm mất đi tính cấp thiết của việc bảo toàn tình trạng tài sản.
- Hoàn thiện pháp luật hình sự:
Nâng cao hiệu quả về xử lý hình sự đối với các sai phạm trong thi hành án dân sự là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng khi các chế tài về hành chính không đủ sức phòng ngừa, răn đe và ngăn chặn các hành vi sai phạm; là cơ sở để đảm bảo tính nghiêm minh, hiệu lực và hiệu quả của pháp luật về XLVPPL trong THADS.
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về XLVPPL trong THADS nói riêng đã được xác định rất cụ thể trong các văn kiện của Đảng cũng như trong chính sách pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu là tạo được một hệ thống pháp luật có sự đổi mới căn bản, có hệ thống Q L với những nguyên tắc, định hướng và mục đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển của đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định pháp luật về xử lý tội phạm trong THADS gắn liền với việc sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật hình sự và Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, Bộ luật hình sự cần bổ sung quy định xác định rõ tội phạm trong THADS là hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực THADS.
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có quy định về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp tại Chương XXIV, Phần thứ hai, bao gồm: các tội xâm phạm hoạt động THADS do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp và thi hành án thực hiện: Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371; Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật (Điều 372); Tội không thi hành án (Điều 379). Các tội xâm phạm hoạt động thi hành án do những người liên quan đến việc thi hành thực hiện: Tội chống người thi hành công vụ; Tội không chấp hành án (Điều 380); Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản, phong tỏa tài sản (Điều 385). Các nhà làm luật cần xem xét tăng các chế tài về xử lý tội phạm để răn đe, phòng ngừa các tội xâm phạm tổ chức và hoạt động THADS vì các chế tài này hiện nay cũng chưa đủ mạnh. Cũng cần lưu ý rằng, hiện nay, quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 về các tội phạm nêu trên còn có những điểm chưa phù hợp như: Điều 385 quy định về Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản, phong tỏa tài sản, trong đó, đã đề cập đến hành vi phá hủy niêm phong hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại tài sản bị kê biên, giải tỏa việc phong tỏa tài khoản; nhưng không quy định về các hành vi khác như: đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản, vật chứng niêm phong hoặc làm mất mát, hư hỏng tài sản, vật chứng niêm phong, do đó, cần bổ sung quy định này theo hướng quy định các hành vi đánh tráo, cất giấu, hủy hoại hoặc làm mất mát, hư hỏng tài sản, vật chứng bị niêm phong là một trong những hành vi cấu thành tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản…. Vì vậy, cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết khi xử lý hình sự với nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp xảy ra trong hoạt động thi hành án dân sự.
Nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội trong hoạt động thi hành án dân sự
Nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội:
Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
“Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập” (Khoản 2, Điều 70, Hiến pháp 2013).
Các quy định của Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội, việc thực hiện các nghị quyết, kiến nghị được tăng cường giám sát hiệu quả hơn. Việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội đã ngày càng được quan tâm, đẩy mạnh. Các cơ quan chịu trách nhiệm phối hợp đã nghiêm túc thực hiện, giải quyết những vấn đề mà đoàn giám sát đề cập tới. Nội dung giám sát đã tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc trong cuộc sống, có tác động tích cực đến hoạt động lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần phát triển kinh tế – xã hội và giữ gìn trật tự kỷ cương của đất nước. Bên cạnh những hiệu quả giám sát mà Quốc hội đã đạt được, việc giám sát của Quốc hội còn tồn tại một số hạn chế. Do vậy, để nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội đối với các hoạt động của Nhà nước nói chung, hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự các cấp nói riêng, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội cần:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát cụ thể, rõ ràng, tiến hành giám sát theo đúng tiến độ đã được đề ra. Hoạt động giám sát cần được quan tâm thường xuyên, hạn chế sự chồng chéo.
- Nội dung giám sát cần tập trung vào những vấn đề mà nhân dân quan tâm, phù hợp với điều kiện của từng địa phương.
- Cần có những biện pháp cụ thể đối với những cơ quan, tổ chức cá nhân không thực hiện hay thực hiện chưa triệt để những kiến nghị của Quốc hội đưa ra. Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho Ủy ban trong hoạt động giám sát bằng các sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. Trong đó, quy định Ủy ban Giám sát có thẩm quyền đề nghị xử lý kỷ luật, khiển trách đối với tổ chức, cá nhân không chấp hành yêu cầu của đoàn giám sát.
- Tích cực hoàn thiện cơ sở pháp lý, đổi mới phương thức giám sát và tăng cường sự lãnh đạo sát sao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là những yếu tố rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội”.
- Nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của văn phòng Quốc hội cũng như các cơ quan, đoàn thể; tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về thi hành án dân sự. Cùng với đó, cần nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tạo điều kiện tối đa để đại biểu có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của Quốc hội nói chung và nhiệm vụ giám sát nói riêng.
- Nâng cao vai trò giám sát của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội:
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các tổ chức chính trị – xã hội là một trong những hình thức của cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước. Đó là hoạt động theo dõi, quan sát, xem xét của MTTQ và Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN), Hội Cựu chiến binh (CCB) nhằm tác động, định hướng các đối tượng bị giám sát thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền từ các cơ quan trên không có tính cưỡng chế nhà nước mà kết quả kiểm soát được thể hiện dưới dạng kiến nghị hoặc thông qua dư luận xã hội, gửi “thông điệp” đến Cơ quan Nhà nước (CQNN), người có thẩm quyền để xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức, các CQNN có hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực trong thi hành án dân sự; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức. Nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc thực hiện chính sách, pháp luật về thi hành án dân sự có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thực hiện giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức khác liên quan đến hoạt động thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật.
Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội các cấp cần quan tâm và đầu tư hơn nữa về mọi mặt cho hoạt động giám sát đối với việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Cơ quan thi hành án dân sự, những người có vai trò quản lý, chấp hành viên. Hiện nay, hoạt động này mới bước đầu được quan tâm, còn được thực hiện chưa nhiều, chưa thường xuyên và nhất là hiệu quả còn thấp do nhiều nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát trong hoạt động THADS, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội các cấp cần:
- Cần phải xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch giám sát; quyết định thành lập đoàn giám sát và tổ chức hoạt động giám sát theo kế hoạch một cách thường xuyên cũng như đột xuất để phát hiện kịp thời các sai phạm trong hoạt động thi hành án dân sự;
- Yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát;
- Đặc biệt chú trọng sử dụng hình thức giám sát văn bản (nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền) và giám sát thường xuyên đối với công tác tổ chức cán bộ và giám sát đối với cán bộ, đảng viên. Việc giám sát văn bản (nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền) của MTTQ các cấp nếu được quan tâm tổ chức thực hiện nghiêm túc sẽ góp phần rất có hiệu quả trong việc phát hiện, kiến nghị khắc phục những hạn chế, lỗ hổng, khoảng trống của văn bản chính sách, pháp luật và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi sai phạm có dấu hiệu hình sự;
- Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết các kiến nghị sau giám sát; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, cá nhân không giải quyết hoặc giải quyết không đúng quy định của pháp luật.
Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong thi hành án dân sự:
Bên cạnh đó việc hoàn thiện hệ thống XLVPPL trong THADS, Pháp luật THADS cũng cần quy định cụ thể cơ chế phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành của Bộ Công an trong quá trình xử lý tội phạm hình sự, từ việc phát hiện tội phạm đến vấn đề đề nghị khởi tố, xét xử và thi hành án.
Điều 12 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị đối với cơ quan, tổ chức có liên quan. Hiện nay, Luật Thi hành án dân sự cũng như các văn bản hướng dẫn lại không quy định trách nhiệm và thời hạn Tòa án phải trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát. Do đó, thực tế hiện nay hầu hết các kiến nghị của Viện kiểm sát đều không được Tòa án, cơ quan THADS trả lời kiến nghị hoặc có trả lời nhưng rất chậm, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác kiểm sát.
Điều 52 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về kết thúc thi hành án:
“Việc thi hành án đương nhiên kết thúc trong trường hợp sau đây:
- Có xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình.
- Có quyết định đình chỉ thi hành án.”
Như vậy sẽ không có Quyết định kết thúc gửi cho Viện kiểm sát và người phải thi hành án. Từ quy định trên dẫn đến tình trạng Viện kiểm sát không nắm được số vụ việc thi hành xong, số vụ việc còn tồn đọng lâu, cũng như tiến độ giải quyết các vụ việc về THADS. Đới với những trường hợp Chấp hành viên đã thi hành xong vụ việc, nhưng quên không gạch sổ thụ lý, dẫn đến vụ việc đó vẫn còn tồn đọng.
Để bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân và nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong THADS trong thời gian tới, Cơ quan thi hành án cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, công tác phối hợp giữa Cơ quan THADS, Chấp hành viên với các cá nhân, tổ chức cần được ký kết các Quy chế phối hợp liên nghành, quy định rõ ràng, chặt chẽ, có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau để phát hiện các hành vi sai phạm trong hoạt động thi hành án dân sự.
Thứ hai, cần tiếp túc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng những nội dung của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến công tác THADS. Đặc biệt, trong công tác phối hợp, nếu ngành nào thực hiện chưa tốt, chưa đúng quy định pháp luật thì cần có biện pháp đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý các cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, nâng cao vai trò của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự để chỉ đạo điều hành hoạt động phối hợp thi hành án dân sự giữa các cơ quan liên quan; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phối hợp THADS.
Nâng cao hiệu quả xử lý hình sự của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Điều 20 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quy định Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao có thẩm quyền điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Mặc dù Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã góp rất lớn vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, trở thành công cụ sắc bén để BKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử; nhưng trong quá trình hoạt động, Cơ quan điều tra VKSND tối cao gặp nhiều khó khăn, hạn chế khi tiến hành điều tra các vụ án liên quan đến các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.
Để đổi mới về tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, góp phần củng cố, nâng cao uy tín và bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của các cơ quan tư pháp; đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp tuân thủ đúng quy định và tôn trọng pháp luật; Cơ quan điều tra VKSND tối cao cần phải quan tâm, thực hiện một số giải pháp như sau:
- Ban hành văn bản hướng dẫn hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử, hoạt động hỗ trợ tư pháp và thi hành án nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết các vụ án liên quan đến các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.
- Đổi mới phương pháp thu thập chứng cứ, quản lý thông tin tội phạm; xây dựng đội ngũ cán bộ điều tra cấp cơ sở, cộng tác viên để theo dõi, điều tra thông tin về tội phạm. Ngoài ra, cần huy động sức mạnh của nhân dân, các cơ quan thông tấn, báo chí trong việc tố giác, phát hiện tội phạm.
- Cơ quan điều tra VKSND tối cao cần tranh thủ sự phối hợp, hỗ trợ của VKSND địa phương, nơi xảy ra tội phạm, là đơn vị sẽ thực hành quyền công tố đối với vụ án trong giai đoạn truy tố, xét xử. Do vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan điều tra VKSND tối cao với VKSND địa phương nơi xảy ra tội phạm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hiện, thu thập thông tin, xác minh, điều tra và xử lý vụ án.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy Cơ quan điều tra VKSND tối cao, đảm bảo Văn phòng cơ quan điều tra chủ yếu làm nhiệm vụ hướng dẫn, kiêm tra và trực tiếp điều tra một số vụ án phức tạp, không phải kiêm nhiệm công tác hậu cần, tài chính mà phải thành lập một bộ phận phụ trách riêng. Chủ động phối hợp với các cơ sở đào tạo mở lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, Điều tra viên, quán triệt các quy định mới của pháp luật.
Kết luận
Có thể khẳng định, hoạt động THADS là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, đến trật tự kỷ cương pháp luật và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, hay nói rộng hơn là quyền dân sự cơ bản của con người, như quyền về tài sản, quyền được lao động, quyền tự do, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm [3]. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THADS cần phải nâng cao nhận thức, đánh giá đúng vị trí, tầm quan trọng của công tác kiểm sát THADS để đề ra các giải pháp đảm bảo thực hiện có chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Hoàn thiện các quy định pháp luật, có các biện pháp phòng ngừa, chế tài đủ sức răng đe, xử lý đối với các sai phạm trong hoạt động thi hành án dân sự.