Bản án Pháp luật: chia thừa kế và hủy văn bản tặng cho

Thông tin bản án

Loại vụ việc: Tranh chấp di sản thừa kế và tuyên bố văn bản tặng cho tài sản vô hiệu.

Cấp xét xử: Phúc thẩm.

Tòa án giải quyết: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Khái quát vụ việc

Khi còn sống, vợ chồng đã làm thủ tục chia đất cho 5 người con trai. Sau đó, phát hiện 1 người con được nhận đất đã hy sinh trước khi chia đất.

Người cha mất đi không để lại di chúc, mẹ tiếp tục quản lý phần đất được chia cho liệt sỹ. Người mẹ lập đơn xin chuyển vị trí lô đất và văn bản cho tài sản là thửa đất này cho một người con trai khác.

Thửa đất bị thu hồi, được nhà nước bồi thường bằng tiền và 01 suất đất tái định cư. Một người con gái khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản tặng cho tài sản vô hiệu, yêu cầu chia đều toàn bộ phần tiền bồi thường và suất đất tái định cư.

Tòa án sơ thẩm tuyên.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bố hợp đồng tặng cho tài sản người mẹ lập vô hiệu, chia đều toàn bộ di sản thừa kế của người cha và người mẹ, cho vợ chồng người con trực tiếp sử dụng đất hưởng một phần trích áng công sức do quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. Giao cho ông Khuất Văn Đ nhận lô đất tái định cư và có nghĩa vụ thanh toán phần tiền chệnh lệch cho các bên.

Tòa án phúc thẩm tuyên.

Chấp nhận kháng cáo của bị đơn, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn. Cụ thể: Toàn bộ tài sản, di sản của người mẹ được công nhận cho bị đơn Khuất Văn Đ, di sản của người cha được chia đều cho các đồng thừa kế. Giao cho ông Khuất Văn Đ nhận lô đất tái định cư và có nghĩa vụ thanh toán phần tiền chệnh lệch cho các bên.

bản án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

Chi tiết bản án

Ngày 17 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai vụ án thụ lý số 530/2023/TLPT-DS ngày 20 tháng 11 năm 2023, về việc “Tranh chấp về di sản thừa kế; và tuyên bố văn bản tặng cho tài sản vô hiệu”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 639/2023/QĐ-PT ngày 12/12/2023, Quyết định hoãn phiên toà số 638/2023/QĐPT-HPT ngày 26/12/2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Khuất Thị L, sinh năm 1953;

Địa chỉ: Số M, ngõ N, ngách L, đường Tân Khai, phường Vĩnh Hưng, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Ông Khuất Văn Đ, sinh năm 1955;

Địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo uỷ quyền của ông Đ: Bà Vi Tú Anh, sinh năm 1998 . Trú tại 32 phố Đỗ Quang, phường Trung Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông Đ: Luật sư Nguyễn Văn Luật – Công ty luật TNHH luật Hùng Bách- Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Khuất Văn N sinh năm 1938;

Địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

Ông Nghĩa ủy quyền cho chị Khuất Thị Thu H,  sinh năm 1975 (là con gái, theo Giấy ủy quyền ngày 08/02/2023).

3.2. Bà Khuất Thị H, sinh năm 1943;

Địa chỉ: Số L, ngõ F, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.3. Ông Khuất Văn H, sinh năm 1951 (Đã chết năm 2021).

* Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông H:

Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1954 (Là vợ của ông H);

Anh Khuất Hồng G, sinh năm 1980 (Là con đẻ ông H);

Đều có địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.4. Ông Khuất Văn T (Đã chết 2011);

* Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T:

Bà Trần Thị T, sinh năm 1951 (Là vợ ông T);

Địa chỉ: Số D phố A, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Anh Khuất Văn H, sinh năm 1971 (Là con ông T);

– Anh Khuất Văn S, sinh năm 1972(Là con ông T);

Đều có địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Chị Khuất Thị Bích N, sinh năm 1981 (Là con ông T);

Địa chỉ: Số G, ngách K, phố Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

(Anh H, anh S và chị N Ủy quyền cho bà Toàn, theo giấy Ủy quyền ngày 06/02/2023);

Đều có địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.5. Bà Khuất Thị Q (Đã chết năm 1987);

Địa chỉ: Số R, phố P, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

* Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q:

– Ông Kiều Bình V (Là chồng bà Q – chết năm 2018);

– Anh Kiều Bình H, sinh năm 1957 (Là con bà Q);

Địa chỉ: Tổ dân phố P, Ái Mỗ, phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Chị Kiều Thị P, sinh năm 1962 (Là con bà Q).

Địa chỉ: Số Q, ngõ B, Thiều Xuân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Chị Kiều Thị Y, sinh năm 1965 (Là con bà Q);

Địa chỉ: Số N phố Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Anh Kiều Bình C, sinh năm 1968 (Là con bà Q);

– Chị Kiều Thị L, sinh năm 1971 (Là con bà Q);

– Chị Kiều Thị T, sinh năm 1973(Là con bà Q);

– Anh Kiều Bình T, sinh năm 1976(Là con bà Q);

Đều có địa chỉ: Số R, phố P, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

(Các đương sự: Anh H, chị P, chị Y, anh C, chị T, anh T đều Ủy quyền chi chị L, theo Giấy ủy quyền ngày 14/02/2023).

3.6. Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ, hy sinh năm 1967- Chưa có vợ con).

3.7. Bà Trần Thị Thanh H, sinh năm 1971 (Là vợ ông Đ);

Địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.8. Anh Khuất Tiến C, sinh năm 1993;

3.9. Anh Khuất Tiến Đ, sinh năm 1999;

3.10. Anh Khuất Tiến D, sinh năm 1999;

(Các anh D, Đ, C là con bà H, ông Đ; đều ủy quyền cho ông Đ).

Đều có địa chỉ: Số R phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.11. Ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây; Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Đình Ngũ, chức vụ: Chủ tịch UBND thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội; ông Ngũ Ủy quyền cho ông Khuất Bá Trinh, chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm quĩ đất thị xã Sơn Tây, Tp Hà Nội, (Theo giấy Ủy quyền số 03/UQ-CT, ngày 16/02/2023). Địa chỉ: Số 01 Phó Đức Chính, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.12. Phòng Công chứng số 8 Thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Mạnh Hùng, chức vụ: Phó Trưởng phòng phụ trách phòng Công chứng số 8, thành phố Hà Nội.

Địa chỉ: Đường La Thành, phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.13. Công ty Cổ phần tập đoàn Xây dựng và Du lịch C. Do bà Nguyễn Thị Mạch, chức vụ: Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh, đại diện.

Địa chỉ: Số E, Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Người kháng cáo, Ông Khuất Văn Đ là bị đơn; Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây kháng nghị.

Nội dung vụ án chia thừa kế và hủy văn bản tặng cho

Theo Bản án dân sự sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Bà Khuất Thị L trình bày:

Bố mẹ đẻ bà là cụ Khuất Văn N và cụ Bùi Thị M. Các cụ sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ); Ông Khuất Văn Đ, Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H và Bà Khuất Thị L.

Cụ N, cụ M tạo lập được thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2 (Nay thuộc thửa số 4, tờ bản đồ số 6), địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

Năm 1970, cụ N, cụ M làm văn bản chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa đất gồm: Ông Khuất Văn N được chia thừa số 323; Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) được chia thửa số X; Ông Khuất Văn H được chia thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ được chia thửa số 324; Ông Khuất Văn T được chia thửa số 325.

Việc chia đất làm 05 thửa trên được xác định bằng Biên bản chia đất và cắm mốc có kèm theo bản phác họa thửa đất phân giới số X, tờ bản đồ số M được UBND thị xã Sơn Tây và phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây xác nhận ngày 15/4/1970. Trong văn bản này cũng xác định rõ là để lại một diện tích đất để làm lối đi chung cho các thửa đất phía sau.

Việc chia đất trên cho 5 người con trai và diện tích đất dùng làm lối đi chung có cắm mốc giới cụ thể nhưng diện tích đất của từng thửa và diện tích đất để lại làm lối đi chung không đo nên không ghi trong văn bản chia đất.

Tại thời điểm năm 1970, khi cụ N, cụ M làm văn bản chia đất cho 5 người con trai thì Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) đã mất (Ông Khuất Văn H hy sinh ngày 27/7/1967 được Nhà nước công nhận và ghi trong “Bằng Tổ quốc nghi công”. Theo qui định của pháp luật thì thửa đất số X, tờ bản đồ số M trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ mà bố mẹ tôi đã chia cho ông H nhưng ông H chết từ năm 1967 (Ông H không có vợ con) nên nhà đất này thuộc quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất hợp pháp của bố mẹ tôi là cụ N, cụ M.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc. Mẹ tôi cùng anh chị em trong gia đình thống nhất cho mẹ tôi tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất đã chia cho ông H để các anh chị em trong gia đình đi lại phụng dưỡng mẹ và thờ cúng cụ N và ông H mà chưa phân chia di sản thừa kế.

Ngày 19/6/1996, cụ M làm văn bản cho tài sản nhà đất (Thửa X) cho Ông Khuất Văn Đ là con trai út, có xác nhận của phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây (Nay là phòng Công chứng số 8 Thành phố Hà Nội). Việc cho tài sản này là không hợp pháp, vô hiệu vì làm thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng về tài sản của anh chị em chúng tôi.

Năm 2002, cụ Bùi Thị M chết không để lại di chúc. Thửa đất số X, tờ bản đồ số M trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ. Vợ chồng ông Đ, bà H sử dụng đến khoảng năm 2008 thì phá bỏ để xây dựng 01 nhà mới 3,5 tầng và ở cho đến nay.

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây có Quyết định số 36/QĐ-UBND về việc thu hồi 74,4 m2 đất (Thửa X, tờ bản đồ số M) trong quyết định ghi hộ Ông Khuất Văn Đ để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ. Đồng thời UBND thị xã Sơn Tây lập phương án chi tiết việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Kèm theo Quyết định số 655/QĐ-UBND ngày 17/7/2009 của UBND thị xã Sơn Tây thì Ông Khuất Văn Đ được bồi thường về đất là 74,4 m2 với đơn giá 10.000.000 đồng/01 mẻ, tương ứng 74,4 m2 x 10.000.000 đồng/01 m2 = 744.000.000 đồng.

Về đất tái định cư sau khi thu hồi thửa X: UBND thị xã Sơn Tây đã giao ông Đ Lô đất số T- Khu M- Khu nhà ở Thuần Nghệ có diện tích 67,5 m2 thuộc phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây.

Ngày 11/9/2009, UBND ra Quyết định số 307/QĐ-UBND về việc thu hồi 47,9 m2 đất làm lối đi chung (Theo văn bản chia đất năm 1970), số tiền bồi thường là 482.000.000 đồng.

Việc UBND thị xã Sơn Tây thu hồi thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 và tái định cư Lô đất số T, diện tích 67,5 m2 đứng tên Ông Khuất Văn Đ là vì UBND thị xã Sơn Tây dựa vào văn bản tặng cho tài sản của cụ M cho ông Đ được lập ngày 16/9/1996. Còn lối đi chung 47.9 m2 là dựa vào văn bản phân chia tài sản của cụ N, cụ M lập năm 1970.

Khi UBND tiến hành thu hồi đất (Thửa X) và lối đi chung, anh chị em chúng tôi đều được biết. Tôi có khiếu nại, xẩy ra việc tranh chấp nên hiện chưa ai được nhận tiền đền bù và chưa nhận đất tái định cư.

Nay các di sản của cụ N, cụ M chết để lại là diện tích đất tái định cư 67,5 m2 thuộc Lô đất số T – A2- Khu nhà ở Thuần Nghệ, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây kèm theo số tiền bồi thường đất 744.000.000đ và tiền bồi thường đất khi thu hồi 47,9 m2 đất lối đi chung là 482.000.000 đồng.

Về Văn bản cho tài sản ngày 19/6/1996 của cụ M cho ông Đ là trái quy định của pháp luật. Bởi tại thời điểm lập văn bản cho tài sản, cụ Bùi Thị M và anh, chị, em chúng tôi chưa khai nhận di sản thừa kế, chưa chia di sản. Thời điểm đó mới chỉ thống nhất để cụ Bùi Thị M  tạm thời quản lý, thờ cúng cụ Khuất Văn N và Liệt sỹ Khuất Văn H. Nay tôi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

– Yêu cầu Tòa án tuyên bố Văn bản cho tài sản được lập ngày 19/6/1996 do phòng Công chứng số 2, tỉnh Hà Tây xác nhận là vô hiệu do trái quy định của pháp luật. Không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

– Yêu cầu Tòa án phân chia di sản của cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M chết để lại gồm:

+ Di sản là toàn bộ thừa đất số X, từ bản đồ số 07, diện tích 74,4 m2, địa chỉ số 29, phố Phùng Khắc Khoan, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội nay đã bị UBND thị xã Sơn Tây thu hồi và được tái định cư Lô đất số T- Khu M- Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2, kèm theo khoản tiền bồi thường đất là 744.000.000đ. Đối với thửa đất này và khoản tiền bồi thường liên quan đến thửa đất là 744.000.000₫ tôi đề nghị phân chia đều bằng giá trị cho 7 đồng thừa kế. Giao thửa đất này cho ông N là con trưởng và ông N có nghĩa vụ thanh toán cho các thừa kế giá trị bằng tiền.

+ Di sản là diện tích đất 47,9 m2 làm lối đi chung của các anh, chị, em chúng tôi. Nay di sản đã bị thu hồi nên được xác định là quyền được hưởng số tiền bồi thường là 482.000.000 đồng (Bốn trăm tám mươi hai triệu đồng). Đề nghị Tòa án chia đều cho 7 thừa kế theo qui định.

+ Đồng thời Tòa án phân chia nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất số tiền 402.000.000 đồng (Bốn trăm linh hai trệu đồng) tương ứng với kỷ phần được nhận cho những người được phân chia di sản thừa kế theo qui định. Đồng thời trích một phần công sức cho người có công duy trì di sản thừa kế.

Các tài sản gồm nhà cấp 4 có trên đất của ông H được bố mẹ tôi làm từ lâu không còn giá trị sử dụng và vợ chồng ông Đ đã phá bỏ và làm nhà khác trên đất, đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất tài sản của bố mẹ tôi trên đất không còn gì nên tôi không yêu Tòa án xem xét giải quyết. Về khoản tiền lợi tức vợ chồng ông Đ, bà H thu được từ việc tận dụng lối đi chung làm nhà cấp 4 cho thuê lấy tiền hàng tháng chúng tôi tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Ông Khuất Văn Đ và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; và bà Trần Thị Thanh H (là vợ ông Đ) thống nhất trình bày:

Bố mẹ tôi là cụ Khuất Văn N và cụ Bùi Thị M có mảnh đất tự tạo lập từ khoảng năm 1932, diện tích đất 1539 m2. Năm 1970, bố mẹ tôi có làm văn bản chia thành 5 thửa đất cho 5 người con trai. Theo bản phác họa thửa đất phân giới số X, tờ bản đồ số 07 được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây phê duyệt ngày 15/4/1970, cụ thể: Lô số 322 đứng tên Ông Khuất Văn H, lô số 323 đứng tên Ông Khuất Văn N, lô số X đứng tên Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ), lô số 324 đứng tên Ông Khuất Văn Đ và lô số 325 đứng tên Ông Khuất Văn T. Cũng tại văn bản này bố mẹ tôi có để lại một lối đi chung cho các thửa đất bên trong. Tuy nhiên, về diện tích đất của từng thửa và diện tích đất lối đi chung không ghi trong văn bản chia đất.

Anh tôi Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) đi bộ đội chống Mỹ cứu nước năm 1964. Trong quá trình anh tôi đi bộ đội không có tin tức về cho gia đình. Ngày 16/12/1976 gia đình tôi nhận được Giấy báo tử của ông H đã hy sinh năm 1967. Thửa đất số X đã chia cho ông H trên đất có 01 nhà cấp 4 được mẹ tôi là cụ Bùi Thị M trực tiếp quản lý, sử dụng cả nhà và đất.

Năm 1972, bố tôi chết không để lại di chúc. Thửa đất 296 và nhà trên đất vẫn do mẹ tôi ở và quản lý.

Vì tuổi già sức yếu nên mẹ tôi đã làm giấy cho nhà đất của liệt sỹ H cho tôi, văn bản cho tài sản có xác nhận của phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây cũ (Nay là phòng Công chứng số 8 thành phố Hà Nội). Kể từ đó đến nay tôi vẫn làm mọi thủ tục và nghĩa vụ với mảnh đất này.

Nay thửa đất số X, diện tích 74,4 m2 và lối đi chung 47,9 m2 tại Số L phố K, phường Quang Trung của tôi thuộc diện bị giải tỏa, thu hồi để làm đường cho dự án Khu nhà ở Thuần Nghệ, Quang Trung.

Ngày 7/01/2009, UBND phường Quang Trung đã họp với sự có mặt của Luật sư, Công chứng viên, Địa chính phường và toàn bộ gia đình tôi để giải quyết vụ việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư.

Thời điểm báo tử liệt sỹ H, cụ M được hưởng thừa kế của người đã chết. Việc cụ Bùi Thị M làm giấy sang tên thửa đất số X cho tôi là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật. Trước khi ra quyết định mẹ tôi đã tham khảo hai bên nội ngoại và đã giao cho tôi là con út trong nhà, người có trách nhiệm gìn giữ căn nhà để hương khói cho anh.

Còn lối đi chung mà bà L yêu cầu Tòa án giải quyết là lối đi riêng của thửa đất số X của Ông Khuất Văn H, không phải lối đi chung của 05 thửa đất như bà L trình bày. Hiện phần lối đi chung này vợ chồng tôi cho người khác thuê (không lập hợp đồng) để bán hàng ăn. Người thuê ông không nhớ họ tên vì mỗi ngày có người thuê khác nhau, mỗi tháng thu về khoảng 4-5 triệu đồng vợ chồng ông sử dụng.

Theo tôi Công ty Bình Minh và UBND thị xã Sơn Tây không liên đến vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa bà L và gia đình tôi. Việc Tòa án đưa UBND thị xã Sơn Tây và Công ty Bình Minh vào tham gia tố tụng trong vụ án này là không phù hợp mà để xem xét giải quyết ở vụ án khác.

Về văn bản cho tài sản lập ngày 19/6/1996 có xác nhận của phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây, văn bản do tôi viết. Sau khi viết xong tôi có đọc cho mẹ tôi nghe có sự chứng kiến của ông M là cán bộ địa chính phường, ông Th là Tổ trưởng dân phố và Công chứng viên Hà Đăng T. Theo tôi việc cụ M cho thửa đất 296 cho tôi là hoàn toàn hợp pháp.

Nay Bà Khuất Thị L khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ N, cụ M để lại theo đơn khởi kiện, tôi đề nghị Tòa án xem xét giải quyết di sản thừa kế tại Số L phố K, phường Quang Trung (Bao gồm: Thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 và lối đi chung, diện tích 47,9 m2) theo qui định của pháp luật. Tôi không đồng ý Tòa án giải quyết Lô đất số T, Khu M, Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2; và số tiền bồi thường 482.000.000đ khi Nhà nước thu hồi diện tích đất lối đi chung 47,9 m2.

Về việc thờ cúng Liệt sỹ Khuất Văn H, hiện do tôi thờ cúng theo sự thống nhất của gia đình.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà Khuất Thị H trình bày:

Tôi là con đẻ của cụ N, cụ M. Bố mẹ tôi sinh được 8 người con và tôi là con thứ tư gồm: Khuất Thị Q, Khuất Văn N, Khuất Văn H, Khuất Thị H, Khuất Văn T, Khuất Văn H, Khuất Thị L và Khuất Văn Đ. Theo tôi nghe được thông tin trước khi cụ M chết có để lại tài sản phần tài sản của anh H (Liệt sĩ) cho ông Đ được sở hữu có chứng nhận của phòng công chứng. Còn cụ thể như thế nào tôi không biết vì mẹ tôi không nói chuyện gì. Bố tôi chết năm 1972 không để lại di chúc. Mẹ tôi chết năm 2002 cũng không để lại di chúc.

Sau khi mẹ tôi cho tài sản nhà và thửa đất số X (Phần tài sản đã chia cho anh H – Liệt sỹ) ở Số L phố K cho anh Đ, tôi thấy như thế là hợp lý nên không có ý kiến gì. Tôi không có kiện cáo gì. Phần thừa kế của tôi được chia liên quan đến thửa đất số X tôi tự nguyện không nhận và nhường lại kỷ phần này cho anh Đ. Còn phần tài sản là diện tích đất dùng làm lối đi chung của bố mẹ tôi chết để lại, theo tôi Tòa án chia cho các con mỗi người một ít vì đó là hương hoa của bố mẹ để lại, phần di sản này tôi xin nhận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Khuất Văn N ủy quyền chị Khuất Thị Thu H (Là con ông N) trình bày:

Bố mẹ đẻ tôi là cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M. Bố mẹ tôi sinh được 8 người con gồm: Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ), Ông Khuất Văn Đ, Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H và Bà Khuất Thị L .

Cụ N, cụ M có thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2 (Nay thuộc thừa số 4, tờ bản đồ số 6), địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, TX Sơn Tây, TP. Hà Nội. Năm 1970 các cụ làm văn bản chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa đất gồm: Ông Khuất Văn N được chia thửa số 323; Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) thửa số X; Ông Khuất Văn H thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ thửa số 324 và Ông Khuất Văn T thửa số 325. Việc chia đất 05 thửa trên được xác định bằng biên bản chia đất và cắm mốc giới có kèm theo bản phác họa được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây xác nhận ngày 15/4/1970. Trong văn bản này cũng xác định rõ để lại một phần diện tích đất làm lối đi chung cho các thửa đất phía sau. Tuy nhiên, về diện tích của từng thửa và đất dùng làm lối đi chung lại không ghi trong văn bản chia đất.

Thời điểm năm 1970, cụ N, cụ M làm văn bản chia đất cho 5 con trai thì Ông Khuất Văn H đã mất (Ông Khuất Văn H  hy sinh ngày 27/7/1967 được Nhà nước công nhận ghi trong “Bằng Tổ quốc nghi công”). Theo qui định của pháp luật thì thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 trên đất có 01 nhà cấp 4 mà bố mẹ tôi đã chia cho ông H nhưng ông H lại chết từ năm 1967 (Ông H không có vợ con) nên thửa đất này vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp và là tài sản chung của bố mẹ tôi là cụ N, cụ M.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc. Mẹ tôi cùng anh chị em trong gia đình thống nhất cho mẹ tôi tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất này để các anh chị em trong gia đình đi lại phụng dưỡng mẹ, thờ cúng cụ N và ông H chưa phân chia di sản thừa kế.

Ngày 19/6/1996, mẹ tôi làm văn bản cho tài sản nhà đất trên cho Ông Khuất Văn Đ, có xác nhận của phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây cũ là không hợp pháp vì làm thiệt hại đến quyền lợi về tài sản của anh chị em chúng tôi. Vì thế ngày 20/6/1996 tôi, ông T, bà L có làm đơn đề nghị gửi UBND thị xã Sơn Tây, phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây, Thanh tra Nhà nước thị xã Sơn Tây yêu cầu đình chỉ việc sang tên nhà đất của Liệt sỹ Khuất Văn H Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây cho Ông Khuất Văn Đ. Đơn có xác nhận của UBND phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây.

Năm 2002, mẹ tôi chết không để lại di chúc. Thửa đất số X trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ, vợ chồng ông Đ, bà H sử dụng đến khoảng năm 2008 vợ chồng ông Đ phá bỏ nhà cũ trên đất để xây dựng 01 nhà 3,5 tầng và ở cho đến nay.

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây thu hồi thửa số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất ở là 74,4 m2, địa chỉ Số L phố K, phường Quang Trung và thu hồi diện tích đất làm lối đi chung là 47,9 m2 (Thời điểm này vợ chồng ông Đ, bà H đang sử dụng) để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở Thuần Nghệ. Đồng thời UBND thị xã Sơn Tây lập phương án chi tiết việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Lô đất số T, Khu M thuộc khu nhà ở Thuần Nghệ diện tích 67,5 m2.

Riêng số tiền được bồi thường diện tích đất làm lối đi chung là 482.000.000 đồng và 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất (Thửa X) là di sản thừa kế của cụ N, cụ M chết để lại nên đề nghị chia đều cho các thừa kế theo pháp luật. Đồng thời, đề nghị Tòa án: Tuyên bố Văn bản cho tài sản được lập ngày 19/6/1996 của mẹ tôi cho ông Đ là vô hiệu vì trái quy định của pháp luật gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của tôi. Đề nghị Tòa án phân chia di sản thửa đất số X, từ bản đồ số 07, diện tích 74,4 m2, địa chỉ Số 29, phố Phùng Khắc Khoan, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội đã bị UBND thị xã Sơn Tây có quyết định thu hồi và được tái định cư: Lô đất số T, Khu M, Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 phân chia cho 7 đồng thừa kế bằng giá trị.Theo đó đề nghị Tòa án phân chia nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất số tiền 402.000.000 đồng (Bốn trăm linh hai trệu đồng) trả Nhà nước tương ứng với kỷ phần được nhận cho những người được phân chia di sản thừa kế và trích một phần công sức cho người có công sức duy trì di sản thừa kế theo qui định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của Ông Khuất Văn T, đồng thời là người được ủy quyền) trình bày:

Tôi là vợ của Ông Khuất Văn T. Cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M là bố mẹ chồng tôi, các cụ sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N, ông Khuất Văn T (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ), Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H, Bà Khuất Thị L và Ông Khuất Văn Đ.

Cụ N, cụ M có thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2, địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, TX Sơn Tây, Hà Nội. Năm 1970, các cụ làm văn bản phân chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa gồm: Ông Khuất Văn N thửa số 323; Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) thửa số X; Ông Khuất Văn H thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ thửa số 324 và Ông Khuất Văn T thửa số 325. Việc chia đất trên có biên bản và cắm mốc giới được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây nhận thực ngày 15/4/1970. Trong sơ đồ phác họa có đất làm lối đi chung cho các thửa đất bên trong nhưng văn bản phân chia đất cũng như lối đi chung không ghi diện tích của từng thửa và diện tích đất dùng làm lối đi chung.

Thời kỳ cụ N, cụ M làm văn bản chia đất cho 5 con trai thì Ông Khuất Văn H đã hy sinh. Vì thế thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp và là tài sản chung của vợ chồng cụ N, cụ M.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc. Mẹ tôi cùng anh chị em trong gia đình thỏa thuận cho mẹ tôi tiếp tục sử dụng thửa đất này để các con trong gia đình đi lại phụng dưỡng mẹ, thờ cúng cụ N và ông H chưa phân chia.

Năm 1996, mẹ tôi làm văn bản cho nhà đất thửa X cho Ông Khuất Văn Đ là không hợp pháp làm thiệt hại đến quyền lợi tài sản của các anh chị em trong gia đình. Ngày 20/6/1996, ông N cùng ông T, bà L làm đơn đề nghị gửi UBND thị xã Sơn Tây, phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây, Thanh tra Nhà nước thị xã Sơn Tây đề nghị đình chỉ việc sang tên nhà đất của Liệt sỹ Khuất Văn H tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây cho Ông Khuất Văn Đ. Đơn này có xác nhận của UBND phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây.

Năm 2002, cụ M chết không để lại di chúc. Thửa đất số X trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ, vợ chồng ông Đ, bà H ở sử dụng đến khoảng năm 2008 vợ chồng ông Đ phá bỏ nhà cấp 4 để xây dựng 01 nhà 3,5 tầng và ở cho đến nay.

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây thu hồi thửa số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất ở là 74,4 m2; và thu hồi đất làm lối đi chung, diện tích đo là 47,9 m2 ở Số L phố K (Thời điểm này vợ chồng ông Đ, bà H đang sử dụng) để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở Thuần Nghệ. UBND thị xã Sơn Tây lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho Lô đất số T, Khu M thuộc khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 tại khu nhà ở Thuần Nghệ, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây. Số tiền được bồi thường diện tích đất làm lối đi chung là 482.000.000 đồng, cộng với 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất đều là di thừa kế của cụ N, cụ M để lại.

Nay tôi đề nghị Tòa án: Tuyên bố Văn bản cho tài sản được lập ngày 19/6/1996 của mẹ tôi cho ông Đ là vô hiệu vì trái quy định của pháp luật và không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Đề nghị Tòa án phân chia di sản của cụ N, cụ M chết để lại: Thửa đất số X, từ bản đồ số 07, diện tích 74,4 m2, địa chỉ Số 29, phố Phùng Khắc Khoan, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, đã bị UBND thị xã Sơn Tây có quyết định thu hồi và được tái định cư: Lô đất số T, Khu M, Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 phân chia cho 7 đồng thừa kế (Thuộc hàng thừa kế thứ nhất là các con đẻ của cụ N, cụ M). Đề nghị Tòa án phân chia nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất số tiền 402.000.000 đồng (Bốn trăm linh hai trệu đồng) trả Nhà nước tương ứng với kỷ phần được nhận cho những người được phân chia di sản thừa kế. Đồng thời chia khoản tiền bồi thường diện tích đất làm lối đi chung là 482.000.000 đồng và số tiền 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất cho các thừa kế. Trích một phần di sản thanh toán cho người có công sức duy trì di sản theo pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L, anh Khuất Hồng G (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của Ông Khuất Văn H) trình bày:

Tôi là vợ của Ông Khuất Văn H. Cụ Khuất Văn N và cụ Bùi Thị M là bố mẹ chồng tôi, các cụ sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ); Bà Khuất Thị Q (Đã chết); Bà Khuất Thị H; Bà Khuất Thị L và Ông Khuất Văn Đ.

Cụ N, cụ M có thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2 ở Số L phố K, phường Quang Trung, TX Sơn Tây, Hà Nội. Năm 1970, các cụ N, cụ M làm văn bản phân chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa gồm: Ông Khuất Văn N thửa số 323; Ông Khuất Văn H thửa số X; Ông Khuất Văn H thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ thửa số 324 và Ông Khuất Văn T thửa số 325. Đồng thời có để lại một lối đi chung cho các thửa bên trong. Văn bản chia đất được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây nhận thực ngày 15/4/1970. Tuy nhiên, diện tích đất của từng thửa và diện tích đất dùng làm lối đi chung không có mà chỉ có cắm mốc giới của từng thửa. Thời kỳ cụ N, cụ M làm văn bản chia đất cho 5 con trai thì Ông Khuất Văn H đã hy sinh nên thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 vợ chồng cụ N, cụ M vẫn quản lý, sử dụng.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc. Cụ M tiếp tục ở, sử dụng nhà đất này để các con trong gia đình đi lại phụng dưỡng mẹ, thờ cúng cụ N và ông H, chưa phân chia.

Năm 1996, cụ M làm văn bản cho thửa đất 296 cho Ông Khuất Văn Đ là con út, một số người trong gia đình không đồng ý. Năm 2002, cụ M chết không để lại di chúc. Thửa đất số X trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ. Vợ chồng ông Đ, bà H ở sử dụng đến khoảng năm 2008 vợ chồng ông Đ phá bỏ nhà cấp 4 để xây dựng 01 nhà 3,5 tầng và ở cho đến nay.

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây thu hồi thửa số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất ở là 74,4 m2 và thu hồi đất làm lối đi chung, diện tích đo là 47,9 m2 ở Số L phố K (Thời điểm này vợ chồng ông Đ, bà H vẫn đang sử dụng) để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở Thuần Nghệ. UBND thị xã Sơn Tây lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho Lô đất số T, Khu M thuộc khu nhà ở Thuần Nghệ diện tích 67,5m2; còn đất lối đi chung bồi thường bằng tiền là 482.000.000 đồng và 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất (Thửa X) do UBND thị xã Sơn Tây đền bù khi thu hồi đất.

Nay bà L kiện ông Đ chia thừa kế thửa đất số X (Trước kia cụ M, cụ N chia cho ông H) và diện tích đất làm lối đi chung. Phần tài sản ông H được chia trong trong di sản của cụ M, cụ N chết để lại bà đề nghị chia đều cho 7 thừa kế, kỷ phần của ông H được chia bà cùng con trai nhận theo qui định của pháp luật thừa kế và đồng ý trích một phần di sản để thanh toán cho người có công sức duy trì di sản theo pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị L (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của Bà Khuất Thị Q, đồng thời là người được ủy quyền) trình bày:

Tôi là con của Bà Khuất Thị Q (Bà Q là con gái cụ N, cụ M). Bà Q chết năm 1987, bố tôi là ông Khuất Bình V chết năm 2018. Bố mẹ tôi chết đều không để lại di chúc.

Cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ), Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H, Bà Khuất Thị L và Ông Khuất Văn Đ. Cụ N, cụ M có thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2 ở Số L phố K, phường Quang Trung, TX Sơn Tây, Hà Nội.

Năm 1970 cụ N, cụ M làm văn bản phân chia thửa đất trên cho 05 người con trai (Không chia cho con gái) mỗi người 01 thửa: Ông Khuất Văn N thửa số 323; Ông Khuất Văn H thửa số X; Ông Khuất Văn H thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ thửa số 324 và Ông Khuất Văn T thửa số 325. Trong văn bản các cụ có để lại một lối đi chung cho các thửa bên trong. Theo tôi biết văn bản chia đất được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây xác nhận ngày 15/4/1970. Thửa đất các cụ cho ông H nhưng ông H hy sinh từ năm 1967 nên Bà Khuất Thị L khởi kiện đến Tòa án chia di sản thừa kế của cụ N, cụ M chết để lại gồm: Thửa đất số X, từ bản đồ số 07, diện tích 74,4m2, địa chỉ số 29, phố Phùng Khắc Khoan, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội(Trước kia chia cho ông H). Khoảng năm 2009 UBND thị xã Sơn Tây thu hồi toàn bộ cùng lối đi chung để làm dự án Khu nhà ở Thuần Nghệ. UBND thị xã Sơn Tây đã cấp đất tái định cư Lô đất số T, Khu M, Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5m; và số tiền được bồi thường diện tích đất làm lối đi chung là 482.000.000 đồng và 744.000.000đ tiền bồi thường đất, đề nghị Tòa án chia đều cho 7 thừa kế theo qui định. Tôi nhất trí với đơn khởi kiện của bà L đối với Ông Khuất Văn Đ. Phần thừa kế được chia theo kỷ phần của mẹ chúng tôi (Bà Q) được hưởng theo qui định của pháp luật, chúng tôi xin nhận kỷ phần bằng giá trị.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Phòng Công chứng số 8 trình bày:

Căn cứ vào hồ sơ lưu trữ tại phòng Công chứng số 8 thành phố Hà Nội. Nhà và đất diện tích khoảng 60 m2, tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, Hà Nội do cụ Bùi Thị M xác nhận là người thừa kế hợp pháp duy nhất (Do con trai là Khuất Văn H hy sinh năm 1967 nhưng tới năm 1977 Nhà nước mới báo tử). Tại thời điểm ngày 19/6/1996 cụ Bùi Thị M đã viết đơn xin công chứng việc cho con tài sản (Nhà và đất) cho Ông Khuất Văn Đ được toàn quyền sở hữu, sử dụng nhà và đất theo pháp luật. Văn bản được Công chứng viên phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây (Nay là phòng Công chứng số 8 Thành phố Hà Nội) xác nhận ngày 19/6/1996.

Ngày 19/6/1996, cụ Bùi Thị M đã nhờ con trai là Ông Khuất Văn Đ viết hộ văn bản cho tài sản. Chứng kiến việc này cụ M có mời ông Chu Hoàng M là cán bộ địa chính phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây và ông Từ Nhân Th là Tổ Trưởng dân phố làm chứng. Phòng công chứng số 8 Thành phố Hà Nội cung cấp một số văn bản, tài liệu kèm theo và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo qui định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây trình bày:

Thực hiện Quyết định số 1042/QĐ-UBND, ngày 24/4/2008 của UBND tỉnh Hà Tây (Nay là UBND thành phố Hà Nội) về việc thu hồi 61.943,1 m2 đất thuộc địa giới hành chính phường Quang Trung, phường Lê Lợi, thành phố Sơn Tây (Nay là thị xã Sơn Tây) giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh thực hiện dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ. Ngày 30/8/2013, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội có Quyết định số 5321/QĐ-UBND về việc điều chỉnh nội dung tại Điều 1 Quyết định số 1042/QĐ-UBND, ngày 24/4/2008 của UBND tỉnh Hà Tây.

Thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 đất địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội chủ sử dụng đất là Ông Khuất Văn Đ (Theo văn bản cho tài sản được lập ngày 19/6/1996 do phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây xác nhận).

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây ban hành Quyết định số 36/QĐ- UBND về việc thu hồi 74,4 m2 đất ở của hộ Ông Khuất Văn Đ tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội để Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ, thị xã Sơn Tây.

Ngày 18/02/2009, Ông Khuất Văn Đ tự kê khai diện tích đất đai, tài sản gắn liền với đất thu hồi và biên bản làm việc ngày 07/7/2009 của Tổ công tác.Việc tiến hành kiểm đếm khối lượng đất đai, tài sản gắn liền với đất thu hồi của hộ Ông Khuất Văn Đ. Ông Đ đã ký xác nhận vào biên bản kiểm đếm. Ban bồi thường GPMB lập phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. UBND thị xã Sơn Tây đã ban hành 02 Quyết định (Kèm theo phương án chi tiết hộ Ông Khuất Văn Đ) cụ thể:

– Quyết định số 655/QĐ-UBND, ngày 17/7/2009 số tiền đến bù là 2.006.010.560 đồng.

– Quyết định số 1261/QĐ-UBND, ngày 25/11/2009 số tiền tăng thêm 900.000 đồng.

Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB của hộ ông Đ là 2.006.910.560 đồng (Trong đó có 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất).

Đối với diện tích đất ngõ đi chung, theo trích đo bản đồ hiện trạng khu đất thu hồi phục vụ công tác GPMB thì diện tích đất ngõ đi chung đo vẽ diện tích là 47,9 m2. UBND thị xã Sơn Tây đã phê duyệt phương án bồi thường đối với diện tích ngõ đi chung số tiền là 482.000.000 đồng. Số tiền này do các hộ chưa thống nhất nên chưa chi trả được.

Về giao đất tái định cư: Ngày 18/3/2014, UBND thị xã Sơn Tây ban hành Quyết định số 223/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bố trí tái định cư kèm theo phương án số 2 đối với Ông Khuất Văn Đ và bà Trần Thị Thanh H (Vợ ông Đ). Theo đó ông Đ được bố trí Lô đất số T-Khu M – Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2. Số tiền sử dụng đất phải nộp là 402.000.000 đồng.

Ban bồi thường GPMB thị xã Sơn Tây phối hợp với UBND phường Quang Trung và Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh nhiều lần tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB và đất tái định cư cho Ông Khuất Văn Đ nhưng ông Đ không nhận tiền và không nhận đất tái định cư. Hiện toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB của hộ ông Đ vẫn do Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh đang tạm giữ.

Từ năm 2009 đến nay UBND thị xã Sơn Tây đã phối hợp với UBND phường Quang Trung và các ban ngành, đoàn thể tổ chức vận động, thuyết phục Ông Khuất Văn Đ nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng. Tuy nhiên ông Đ không hợp tác.

Trường hợp Tòa án có Bản án/Quyết định giải quyết “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa Bà Khuất Thị L với Ông Khuất Văn Đ cùng các đương sự khác liên quan đến việc thu hồi đất ở. Việc xác nhận một phần hoặc toàn bộ Lô đất số T-Khu M- Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5m2 và lối đi chung là di sản thừa kế phải phân chia thì UBND thị xã Sơn Tây yêu cầu Công ty Cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh chuyển toàn bộ kinh phí bồi thường, hỗ trợ GPMB vào tài khoản của Trung tâm phát triển quĩ đất thị xã Sơn Tây để thực hiện việc chi trả theo qui định; và đến thời điểm những người được hưởng di sản thừa kế nộp tiền sử dụng đất 402.000.000₫ thì số tiền sử dụng đất không bị thay đổi, lý do vì UBND thị xã Sơn Tây đã được phê duyệt phương án bố trí tái định cư tại Quyết định số 223/QĐ-UBND, ngày 18/3/2014 và số tiền 402.000.000 đồng tiền sử dụng đất không nằm trong trường hợp chậm nộp với lý do Chi cục Thuế thị xã Sơn Tây chưa ra Thông báo nộp tiền sử dụng đất cho Ông Khuất Văn Đ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh do bà Nguyễn Thị M trình bày:

Ngày 24/4/2008 của UBND tỉnh Hà Tây (Nay là UBND thành phố Hà Nội) ban hành Quyết định số 1042/QĐ-UBND về việc thu hồi 61.943,1 m2 đất thuộc địa giới hành chính phường Quang Trung, phường Lê Lợi, thành phố Sơn Tây(Nay là thị xã Sơn Tây); giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh thực hiện dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ. Tại Điều 1 Quyết định ghi: “…Căn cứ Điều 1 Quyết định này UBND thị xã Sơn Tây ban hành quyết định thu hồi đất và GCNQSD đất của các hộ gia đình và cá nhân (Nếu có); chỉ đạo thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ GPMB theo qui định”. Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây ban hành Quyết định số 36/QĐ-UBND về việc thu hồi 74,4 m2 đất ở của hộ Ông Khuất Văn Đ tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội để Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ, thị xã Sơn Tây.

UBND thị xã Sơn Tây chỉ đạo giao cho Ban bồi thường GPMB lập phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất ở hộ gia đình Ông Khuất Văn Đ. UBND thị xã Sơn Tây ban hành 02 Quyết định.

– Quyết định số 655/QĐ-UBND, ngày 17/7/2009 số tiền đến bù là 2.006.010.560 đồng.

– Quyết định số 1261/QĐ-UBND, ngày 25/11/2009 số tiền tăng thêm 900.000 đồng.

Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB của hộ ông Đ là 2.006.910.560 đồng.

Hiện toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB của hộ ông Đ vẫn do Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh đang tạm giữ.

Trong trường hợp Tòa án có quyết định giải quyết “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa Bà Khuất Thị L và Ông Khuất Văn Đ liên quan đến việc thu hồi đất của ông Đ có hiệu lực thi hành thì Công ty Bình Minh sẽ chuyển toàn bộ kinh phí bồi thường, hỗ trợ GPMB vào tài khoản Trung tâm phát triển quĩ đất thị xã Sơn Tây. Trường hợp Tòa án xác định số tiền này là di sản thừa kế và phải phân chia cho người được hưởng di sản thì việc chi trả tiền thực hiện theo quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Theo qui định khi UBND thị xã Sơn Tây phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ GPMB cho các hộ thì Công ty chuyển kinh phí cho Ban bồi thường GPMB để phối hợp với UBND phường mời các hộ để nhận tiền để bàn giao mặt bằng theo qui định. Tuy nhiên, đối với hộ Ông Khuất Văn Đ không đồng ý nhận tiền và không bàn giao mặt bằng cho Công ty, từ đó làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án từ năm 2009 đến nay Công ty vẫn chưa đưa dự án vào khai thác, sử dụng được.

Người làm chứng ông Hà Đăng T (Nguyên Công chứng viên- phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây là người ký xác nhận Văn bản tặng cho tài sản ngày 19/6/1996) trình bày:

Tôi là công chứng viên của phòng Công chứng số 2 Hà Tây từ năm 1995, đến năm 2008 tỉnh Hà Tây sát nhập với Hà Nội chuyển thành phòng Công chứng số 8 thành phố Hà Nội.

Ngày 19/6/1996, với tư cách là Công chứng viên phòng Công chứng số 2 Hà Tây tôi có xác nhân và “Văn bản cho tài sản về việc giao quyền sở hữu nhà, sử dụng đất cho con” của cụ Bùi Thị M 83 tuổi, trú tại số nhà 29 phố Phùng Khắc Khoan, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây (Nay là thành phố Hà Nội), người nhận tài sản được cụ M cho là Ông Khuất Văn Đ (Là con trai cụ M). “Văn bản cho tài sản” là do Ông Khuất Văn Đ viết tại nhà Số L phố K, Quang Trung Sơn Tây và viết từ trước. Sau đó gia đình ông Đ mời phòng Công chứng, Công chức địa chính phường, ông Tổ trưởng dân phố đến chứng kiến và ký vào văn bản cho tài sản tại nhà cụ Bùi Thị M ở Số L phố K, Quang Trung, thị xã Sơn Tây. Thời điểm đó cụ M yếu không thể tự ký vào văn bản được, anh Đ là người cầm tay cụ M để cụ M  ký vào văn bản. Cụ M  yếu tay rất run. Trước khi mọi người ký vào văn bản cho tài sản thì ông Đ là người đọc văn bản cho những người có mặt nghe, chứng kiến.

Người làm chứng ông Chu Hoàng M (Nguyên cán bộ địa chính phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây có mặt ký trong văn bản tặng cho tài sản ngày 19/6/1996) trình bày:

Tôi được Ông Khuất Văn Đ mời đến nhà cụ Bùi Thị M ở Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, Hà Nội (Ông Đ là con trai cụ M lúc đó đang ở cùng cụ M) vào ngày 19/6/1996 và có nhờ tôi xác nhận vào văn bản tặng cho tài sản, vì lúc đó tôi là cán bộ địa chính phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây. Khi tôi tới nơi thì thấy văn bản tặng cho tài sản đã được viết sẵn, còn ai viết văn bản thì tôi không biết. Người làm chứng trong văn bản này khi tôi đến nơi thấy có anh Hà Đăng T là Công chứng viên phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây (Cũ), ông Từ Nhân Th là Tổ trưởng tổ dân phố. Chữ ký trong văn bản tặng cho của cụ M không phải do cụ M ký mà do anh Đ cầm tay cụ M viết vào văn bản. Tiếp theo là tôi, ông Th và anh T ký xác nhận vào văn bản tặng cho tài sản.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây đã quyết định:

  • Chấp nhận đơn khởi kiện của Bà Khuất Thị L
  • Tuyên bố Hợp đồng cho tài sản của cụ Bùi Thị M đối với Ông Khuất Văn Đ lập ngày 19/6/1996 là vô hiệu toàn phần.
  • Xác nhận di sản thừa kế của vợ chồng cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M chết để lại gồm:

– Thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất 74,4 m2, trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội.

– Diện tích đất làm lối đi chung là 47,9 m2, tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội.

Nay được chuyển thành Lô đất số T- Khu M – Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 (Kèm theo số tiền bồi thường đất 744.000.000đ); và diện tích đất làm lối đi chung là 47,9 m2 (Được bồi thường bằng tiền là 482.000.000đ). Sau khi trừ khoản tiền 402.000.000đ tiền đất phải nộp vào ngân sách Nhà nước, giá trị còn lại là: 4.279.528.000đ (Bốn tỷ, hai trăm bảy mươi chín triệu, năm trăm hai mươi tám nghìn đồng).

  • Xác nhận thời điểm mở thừa kế của cụ Khuất Văn N là năm 1972; Thời điểm mở thừa kế của cụ Bùi Thị M là năm 2002.
  • Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M gồm: Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T; Ông Khuất Văn H, Ông Khuất Văn Đ, Bà Khuất Thị Q, Bà Khuất Thị H và Bà Khuất Thị L
  • Xác nhận Ông Khuất Văn T chết năm 2011- Người nhận kỷ phần thừa kế của ông T gồm vợ ông T và các con của ông T.
  • Xác nhận Ông Khuất Văn H chết năm 2021- Người nhận kỷ phần thừa kế của ông H gồm vợ ông H và các con của ông H.
  • Xác nhận Bà Khuất Thị Q chết năm 1987- Người nhận kỷ phần thừa kế của bà Q gồm chồng bà Q và các con của bà Q (Do chồng bà Q là ông Khuất Bình V chết năm 2018) nên các con của bà Q được hưởng.
  • Chia một phần giá trị di sản bằng tiền bao gồm:

* Khoản tiền 744.000.000 đồng (Khoản tiền bồi thường thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất 74,4 m2);

* Khoản tiền 482.000.000 đồng (Khoản tiền bồi thường diện tích đất lối đi chung 47,9 m2);

Các thừa kế mỗi kỷ phần được hưởng tổng cộng hai khoản trên gồm:

– Ông Khuất Văn N được hưởng 175.142.700 đồng, (Người đại diện cho ông N theo ủy quyền là chị Khuất Thị Thu H);

– Bà Khuất Thị H được hưởng 175.142.700 đồng;

– Bà Khuất Thị L được hưởng 175.142.700 đồng;

– Bà Nguyễn Thị L và anh Khuất Hồng G (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông H) được hưởng chung 175.142.700 đồng;

– Bà Trần Thị T, anh Khuất Văn H, anh Khuất Văn S, chị Khuất Thị Bích N (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T, bà T đại diện theo ủy quyền) được hưởng chung 175.142.700 đồng;

– Anh Kiều Bình H, chị Kiều Thị P, chị Kiều Thị Y, anh Kiều Bình C, chị Kiều Thị L, chị Kiều Thị T, anh Khuất Bình T (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q, người đại diện theo ủy quyền là chị L) được hưởng chung 175.142.700 đồng;

– Ông Khuất Văn Đ được hưởng 175.142.700 đồng.

Giao cho Uỷ ban nhân dân thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội trực tiếp thực hiện việc chi trả các khoản tiền trên cho các thừa kế.

  • Chia phần di sản còn lại bằng hiện vật:

Giao cho Ông Khuất Văn Đ được quyền sử dụng Lô đất số T – Khu M – Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2, có giá trị là 3.455.528.000 đồng. Theo đó Ông Khuất Văn Đ phải có nghĩa vụ thanh toán lại giá trị bằng tiền cho các thừa kế gồm:

– Ông Khuất Văn N là 493.646.800 đồng (Người đại diện cho ông Nghĩa theo ủy quyền là chị Khuất Thị Thu H);

– Bà Khuất Thị L là 493.646.800 đồng;

– Bà Nguyễn Thị L và anh Khuất Hồng G (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông H) được thanh toán chung là 493.646.800 đồng;

– Bà Trần Thị T, anh Khuất Văn H, anh Khuất Văn S, chị Khuất Thị Bích N (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T, bà T đại diện theo ủy quyền) được thanh toán chung là 493.646.800 đồng;

– Anh Kiều Bình H, chị Kiều Thị P, chị Kiều Thị Y, anh Kiều Bình C, chị Kiều Thị L, chị Kiều Thị T, anh Kiều Bình T (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q, người đại diện theo ủy quyền là chị L) được thanh toán chung là 493.646.800 đồng.

(Có sơ đồ thửa đất kèm theo Bản án).

  • Chấp nhận việc tự nguyện của Bà Khuất Thị H từ chối nhận kỷ phần thừa kế được chia từ giá trị trong phần di sản là Lô đất số T – Khu 02 – Khu nhà ở Thuần nghệ, cho Ông Khuất Văn Đ được hưởng. Theo đó Ông Khuất Văn Đ không phải thanh toán cho bà H khoản tiền là 493.646.800 đồng.
  • Các thừa kế đều phải có nghĩa vụ chung nộp số tiền 402.000.000 đồng (Bốn trăm linh hai triệu đồng) tiền sử dụng đất vào ngân sách Nhà nước thông qua UBND thị xã Sơn Tây cụ thể:

– Ông Khuất Văn N phải nộp 57.428.571 đồng (Người đại diện cho ông Nghĩa theo ủy quyền là chị Khuất Thị Thu H nộp);

– Bà Khuất Thị H nộp 57.428.571 đồng;

– Bà Khuất Thị L nộp 57.428.571 đồng;

– Bà Nguyễn Thị L và anh Khuất Hồng G (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của ông H) cùng chung nộp 57.428.571 đồng;

– Bà Trần Thị T, anh Khuất Văn H, anh Khuất Văn S, chị Khuất Thị Bích N (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của ông T, bà T) cùng chung nộp 57.428.571 đồng;

– Anh Kiều Bình H, chị Kiều Thị P, chị Kiều Thị Y, anh Kiều Bình C, chị Kiều Thị L, chị Kiều Thị T, anh Kiều Bình T (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của bà Q) cùng chung nộp 57.428.571 đồng;

– Ông Khuất Văn Đ phải nộp 57.428.571 đồng.

  • Trích một phần giá trị di sản thừa kế tính bằng tiền để thanh toán cho vợ chồng Ông Khuất Văn Đ, bà Trần Thị Thanh H về công sức duy trì khối di sản được tính là 450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng). Theo đó mỗi kỷ phần thừa kế phải thanh toán cho vợ chồng ông Đ, bà H số tiền là:

– Ông Khuất Văn N phải thanh toán 75.000.000 đồng (Người đại diện cho ông N theo ủy quyền là chị Khuất Thị Thu H nộp);

– Bà Khuất Thị H phải thanh toán 75.000.000 đồng;

– Bà Khuất Thị L phải thanh toán 75.000.000 đồng;

– Bà Nguyễn Thị L và anh Khuất Hồng G (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của ông H) cùng chung phải thanh toán 75.000.000 đồng;

– Bà Trần Thị T, anh Khuất Văn H, anh Khuất Văn S, chị Khuất Thị Bích N (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của ông T, bà T) cùng chung phải thanh toán 75.000.000 đồng;

– Anh Kiều Bình H, chị Kiều Thị P, chị Kiều Thị Y, anh Kiều Bình C, chị Kiều Thị L, chị Kiều Thị T, anh Kiều Bình T (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của bà Q) cùng chung phải thanh toán 75.000.000;

  • Mỗi thừa kế được hưởng kỷ phần có giá trị là: 536.046.800 đồng (Năm trăm ba mươi sáu triệu, không trăm bốn mươi sáu nghìn, tám trăm đồng).
  • Chấp nhận việc tự nguyện của các đồng thừa kế không yêu cầu Tòa án xem xét chia tài sản (Nhà cấp 4) trên thửa đất số X; và không yêu cầu xem xét chia phần lợi tức (Khoản tiền) phát sinh từ việc vợ chồng ông Đ, bà H làm nhà tạm trên diện tích đất làm lối đi chung để cho thuê.
  • Chấp nhận việc đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng cho tài sản vô hiệu toàn phần.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án không thi hành thì phải chịu lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thoả thuận của các bên nhưng không vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu không thoả thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

  • Kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây chỉnh sửa, thay đổi đối với đối tượng thu hồi đất và đối tượng được phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phần có liên quan đến di sản thừa kế được xem xét giải quyết trong vụ án này theo trình tự, qui định của pháp luật.

Sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật Ông Khuất Văn Đ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật.

  • Về án phi: Áp dụng Nghị Quyết số 326/20116/UBTVQH K14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội qui định về án phi, lệ phí Tòa án:

Miễn án phi dân sự sơ thẩm cho Ông Khuất Văn N, Bà Khuất Thị L, Bà Khuất Thị H, Bà Trần Thị T, Ông Khuất Văn Đ, bà Nguyễn Thị L, Ông Khuất Văn H, bà Kiều Thị P.

Anh Khuất Hồng G phải nộp 13.676.885 đồng (Mười ba triệu sáu trăm bảy mươi sáu nghìn tám trăm tám mươi lăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm; Anh Khuất Văn H, anh Khuất Văn S, chị Kiều Thị Bích N mỗi người phải nộp 6.838.442 đồng (Sáu triệu tám trăm ba mươi tám nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm; Chị Kiều Thị Y, anh Kiều Bình C, chị Kiều Thị L, chị Kiều Thị T và anh Kiều Bình T mỗi người phải nộp 3.907.681 đ (Ba triệu chín trăm linh bảy nghìn sáu trăm tám mươi mốt đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm; Bà Trần Thị Thanh H phải nộp 11.250.000 đồng (Mười một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

  • Về chi phí tố tụng: Ông Khuất Văn N Bà Khuất Thị H, Ông Khuất Văn Đ, bà Nguyễn Thị L, bà Trần Thị T và chị Kiều Thị L mỗi người phải thanh toán cho Bà Khuất Thị L 3.142.000đ tiền chi phí tố tụng.

Ngoài ra Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Không đồng ý, Ông Khuất Văn Đ kháng cáo, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây kháng nghị Bản án dân sự sơ thẩm.

Đơn kháng cáo của Ông Khuất Văn Đ có nội dung chính: Căn cứ để tuyên vô hiệu toàn phần Hợp đồng tặng cho của cụ Bùi Thị M lập ngày 19/6/1996 là chưa thoả đáng, chưa đúng với thực tế sự việc. Từ đó, Bản án dân sự sơ thẩm chia thừa kế đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của ông. Ông Đ đề nghị Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xem xét lại toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm.

Kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây có nội dung chính: Việc Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây chia đều di sản của cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M cho 7 thừa kế gây thiệt hại cho Ông Khuất Văn Đ, trái với ý chí định đoạt của cụ M trước đó theo Văn bản tặng cho năm 1978 có chứng thực của Phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây và Hợp đồng tặng cho năm 1996 có chứng thực của Phòng Công chứng số 8 thành phố Hà Nội. Ngoài ra Bản án dân sự sơ thẩm tính sai án phí các đương sự phải nộp. Viện Kiểm sát đề nghị Toà án nhân dân thành phố Hà Nội sửa Bản án dân sự sơ thẩm, xác định phần di sản của cụ M đã được định đoạt cho ông Đ, sửa giá trị của từng thừa kế được hưởng và phần án phí.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đương sự giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, không xuất trình chứng cứ mới.

Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ nguyên kháng nghị. Tham gia phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu điểm:

Về tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tụng dân sự.

Về nội dung, sau khi phân tích đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ông Khuất Văn Đ, chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây, sửa Bản án dân sự sơ thẩm.

Nhận định của Tòa án về việc chia thừa kế

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng:

Ông Khuất Văn Đ nộp đơn kháng cáo, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây kháng nghị trong hạn luật định là hợp lệ.

Về nội dung:

Xét yêu cầu kháng cáo của Ông Khuất Văn Đ, kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Vợ chồng cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ); Ông Khuất Văn Đ; Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H và Bà Khuất Thị L.

Vợ chồng cụ N, cụ M tạo lập được khối tài sản gồm: Thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2, địa chỉ thửa đất: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Năm 1970, cụ N, cụ M làm Văn bản chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa đất gồm: Ông Khuất Văn N được chia thửa số 323; Ông Khuất Văn H  được chia thửa số X; Ông Khuất Văn H được chia thửa số 322; Ông Khuất Văn T được chia thửa số 325 và Ông Khuất Văn Đ được chia thửa số 324. Đồng thời văn bản chia tài sản năm 1970 cũng để lại một phần diện tích đất làm lối đi chung. Việc chia đất làm 05 thửa trên cho 5 người con trai của cụ N, cụ M còn được xác định bởi việc cắm mốc giới kèm theo bản phác họa thửa đất phân giới số X, tờ bản đồ số M, tỷ lệ ước lược 1/1000 được UBND thị xã Sơn Tây và phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận ngày 19/4/1970. Tuy nhiên, về diện tích đất của từng thửa và diện tích đất để lại làm lối đi chung lại không xác định cụ thể.

Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây đã xác minh tại UBND phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây theo Bản đồ 2003; Sổ địa chính phường và theo tài liệu, chứng cứ do UBND thị xã Sơn Tây cung cấp (Tài liệu này khi UBND thị xã tiến hành công tác thu hồi đất, GPMB, tái định cư đo đạc được) thì diện tích của từng thửa là: Ông Khuất Văn N được chia thửa số 323 (Nay là thửa số K, tờ bản đồ số A, diện tích 109,1 m2); Ông Khuất Văn H được chia thửa số X (Nay là thửa số N, tờ bản đồ số A, diện tích 64,4 m2); Ông Khuất Văn H được chia thửa số 322 (Nay là thửa số H, tờ bản đồ số A, diện tích 396,7 m2); Ông Khuất Văn T được chia thửa số 325 (Nay được chia thành hai thửa gồm thửa số 35, tờ bản đồ số A, diện tích 839,7 m2) và thửa số E, tờ bản đồ số A, diện tích 24,7 m2 và Ông Khuất Văn Đ được chia thửa số 324 (Nay là thửa số Q, tờ bản đồ số A, diện tích 118,9 m2). Còn diện tích đất dùng làm lối đi chung là 47,9 m2.

Tại thời điểm năm 1970, vợ chồng cụ N, cụ M làm Văn bản chia đất cho 5 người con trai trong đó có Ông Khuất Văn H. Nhưng trên thực tế ông H hy sinh ngày 27/7/1967 được Nhà nước công nhận là Liệt sỹ ghi nhận tại “Bằng Tổ quốc ghi công”. Ông Khuất Văn H không có vợ con nên thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ, địa chỉ Số L phố K, phường Quang Trung vẫn tài sản chung hợp pháp, hợp nhất của vợ chồng cụ N, cụ M theo qui định của pháp luật.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc, thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 trên đất có một nhà cấp 4, cụ M tiếp tục quản lý, sử dụng để ở và làm nơi thờ cúng cụ N và ông H mà chưa phân chia thừa kế.

Về thời hiệu khởi kiện:

Theo Công văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của Toà án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về nghiệp vụ “từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.

Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19- 10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.

Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia”.

Trong vụ án này, tại thửa đất 296 có nhà cấp 4 cũ của các cụ để lại, trong quá trình sử dụng vợ chồng ông Đ đã phá bỏ vào năm 2008 để xây dựng nhà mới 3,5 tầng. Bà Khuất Thị L khởi kiện lần đầu ngày 21/6/2018, đến ngày 27/10/2021 bà L rút đơn khởi kiện với lý do để gia đình thỏa thuận lại và Tòa án ra Quyết định đình chỉ vụ án. Ngày 18/12/2021, bà L khởi kiện lại vụ án. Như vậy, về thời gian khởi kiện của bà L được tính từ ngày 18/12/2021, theo qui định của pháp luật trích dẫn trên thì việc khởi kiện của bà L là trong thời hiệu.

Xét thấy, năm 1972, cụ N chết không để lại di chúc, thừa kế được mở theo quy định của pháp luật. Theo đó, 1/2 thửa đất số X thuộc quyền sử dụng của cụ M, 1/2 còn lại là di sản thừa kế của cụ N được chia theo pháp luật cho cụ M và 7 người con. Do thời gian chia đất 1970 đến thời gian cụ N chết năm 1972 là quá ngắn và thời gian mở thừa kế của cụ N từ năm 1972 cho đến khi giải quyết vụ án này là quá dài nên khi chia thừa kế không trích công sức là phù hợp. Như vậy, tại thời điểm năm 1972, cụ M được quyền sử dụng 9/16 phần của thửa đất số X.

Xem xét việc tặng cho tài sản của cụ Bùi Thị M thấy rằng:

Ngày 16/02/1978, cụ Bùi Thị M làm “Đơn xin chuyển vị trí lô đất” thửa số X, tờ bản đồ số M (Đã chia cho ông H năm 1970) sang tên Ông Khuất Văn Đ có xác nhận của Phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây ngày 21/02/1978.

Ngày 19/6/1996, cụ M làm “Văn bản cho tài sản” là thửa đất số X, trên đất có 1 nhà cấp 4 cho con trai út là Ông Khuất Văn Đ. Văn bản này có xác nhận của phòng công chứng số 2 tỉnh Hà Tây (Nay là phòng công chứng số 8 thành phố Hà Nội).

Xét thấy, năm 1978 và năm 1996 cụ M lập hai văn bản trên cho Ông Khuất Văn Đ thể hiện ý chí, nguyện vọng của cụ M mong muốn cho ông Đ tài sản của mình là phù hợp với quy định của pháp luật nên có hiệu lực. Tuy nhiên, tại thời điểm năm 1972 khi cụ N chết, thừa kế được mở. Cụ M chỉ được quyền sử dụng 9/16 phần của thửa đất số X nhưng khi tặng cho cụ M lại quyết định tặng cho toàn bộ thửa đất 296 là vượt quá quyền của cụ M. Do đó, phần cụ M tặng cho vượt quá không có hiệu lực. Phần tặng cho vượt quá được xác định là phần di sản thừa kế còn lại của cụ N sau khi chia tài sản chung và chia thừa kế cho cụ M. Phần di sản còn lại này được xác định là quyền sử dụng 9/16 phần của thửa đất số X và được chia thừa kế cho 7 người con của cụ N, cụ M. Do tài sản thuộc quyền của cụ M  đã được định đoạt khi còn sống nên năm 2022, cụ Bùi Thị M chết không còn tài sản.

Trong vụ án này chỉ chia thừa kế phần di sản của cụ N cho các thừa kế. Tài sản của vợ chồng cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M để lại được xác định gồm:

– Thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất 74,4 m2, trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ. Nay di sản này được chuyển thành Lô đất số T- Khu M – Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2, định giá thành tiền là 3.455.528.000đ; Kèm theo khoản tiền bồi thường đất là 744.000.000đ.

– Diện tích đất làm lối đi chung là 47,9 m2. Nay di sản này được chuyển thành khoản tiền bồi thường là 482.000.000đ.

Tổng cộng: 3.455.528.000đ + 744.000.000đ + 482.000.000đ = 4.681.528.000đ

Số tiền đất phải nộp vào ngân sách Nhà nước theo qui định là 402.000.000đ nên giá trị thực còn lại là:

4.681.528.000đ – 402.000.000đ = 4.279.528.000 đồng.

Trong đó:

+9/16 thuộc quyền của cụ M là: 2.407. 234.500 đồng

+7/16 thuộc di sản thừa kế của cụ N là: 1.872.293.500 đồng.

Số tiền thuộc di sản thừa kế của cụ N là 1.872.293.500 đồng được chia cho 7 thừa kế là các con của cụ N, cụ M mỗi người được hưởng là 267.470.500 đồng.

Để đảm bảo tính khả thi của Bản án, đồng thời phù hợp với ý kiến của UBND thị xã Sơn Tây (Là cơ quan thực hiện việc chi trả các khoản tiền bồi thường khi thu hồi đất được xác định là di sản thừa kế của cụ N, cụ M chết để lại). Xét thấy phần tài sản thu hồi thuộc diện di sản thừa kế mà UBND thị xã Sơn Tây thực hiện việc bồi thường như khoản tiền bồi thường về đất ở là 744.000.000đ (Thửa X); khoản tiền bồi thường diện tích đất lối đi chung bằng tiền là 482.000.000đ. Đây là hai khoản tiền hiện UBND thị xã Sơn Tây chưa thực hiện được việc chi trả và được xác định là di sản thừa kế nên tiếp tục giao cho UBND thị xã Sơn Tây trực tiếp thực hiện việc chi trả cho các thừa kế, đồng thời thu lại khoản tiền 402.000.000đ tiền đất phải nộp vào ngân sách Nhà nước đối với 7 thừa kế.

Cụ thể như sau:

* Khoản tiền bồi thường đất là:

744.000.000₫ : 7 (Thừa kế) = 106.285.700 đồng

* Khoản tiền bồi thường diện tích đất là lối đi chung là: 482.000.000đ :7(Thừa kế) = 68.857.000 đồng.

* Khoản tiền đất của 7 thừa kế phải nộp vào ngân sách Nhà nước thông qua UBND thị xã Sơn Tây là: 402.000.000đ : 7(Thừa kế)= 57.428.571 đồng.

Tổng cộng mỗi thừa kế được UBND thị xã Sơn Tây chi trả 175.142.700 đồng. Mỗi thừa kế phải nộp tiền đất là 57.428.571đ. Như vậy mỗi thừa kế được thực hưởng 117.714.129 đồng. So với kỷ phần thừa kế còn thiếu 267.470.500 đồng – 117.714.129 đồng = 149. 756.371 đồng.

Xét thấy, Lô đất số T – Khu M Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 (Đất được tái định cư) không thể chia cho các thừa kế bằng hiện vật được mà chia bằng giá trị. Bản án dân sự sơ thẩm giao cho Ông Khuất Văn Đ được sử dụng là phù hợp vì ông Đ là người có thời gian ở chung cùng cụ N, cụ M. Sau khi cụ N, cụ M chết thì ông Đ vẫn là người quản lý, sử dụng di sản của các cụ để lại. Khi Nhà nước thu hồi đất, GPMB, tái định cư thửa mới thì ông Đ là người đứng ra làm các thủ tục và ký các văn bản của UBND thị xã Sơn Tây. Bởi vậy, nên giao Lô đất số T- Khu M – Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 (Đất được tái định cư, có sơ đồ thửa đất kèm theo) cho Ông Khuất Văn Đ, theo đó ông Đ phải có nghĩa vụ toán loại bằng tiền tương ứng với kỷ phần được chia cho các thừa kế.

Cụ thể: Giá trị thửa đất là 3.455.528.000 đồng. Ông Đ phải thanh toán giá trị kỷ phần thừa kế được chia bằng tiền cho các thừa kế gồm: Ông Khuất Văn N là 149.756.371 đồng. Ông Khuất Văn H (Ông H chết vợ, con là người thừa kế quyền và nghĩa vụ được hưởng chung) là 149.756.371 đồng. Ông Khuất Văn T (Ông T chết vợ con là người thừa kế quyền và nghĩa vụ được hưởng chung) là 149.756.371 đồng. Bà Khuất Thị Q (Bà Q chết, chồng bà Q là ông V chết, các con là người thừa kế quyền và nghĩa vụ được hưởng chung) là 149.756.371 đồng. Bà Khuất Thị H là 149.756.371 đồng. Bà Khuất Thị L là 149.756.371 đồng.

Xét việc Bà Khuất Thị H tự nguyện nhường lại kỷ phần thừa kế (Kỷ phần chia thừa của Lô đất số 2, Khu 2, Khu nhà ở Thuần Nghệ cho Ông Khuất Văn Đ là phù hợp.

Các khoản tiền bồi thường khác liên quan đến việc thu hồi của UBND thị xã Sơn Tây mà không liên quan đến di sản thừa kế của cụ N, cụ M như đã nhận định, phân tích ở trên thì vẫn được giữ nguyên theo quyết định của UBND thị xã Sơn Tây và vợ chồng Ông Khuất Văn Đ, bà Trần Thị Thanh H được quyền sở hữu theo qui định của pháp luật.

Như phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ông Khuất Văn Đ, kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây, sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự.

Án phí sơ thẩm: Các đương sự chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Án phí phúc thẩm: Ông Khuất Văn Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên

Quyết định

Căn cứ Điều 26, 30, 35, 39, 147,148, 227, 228, 271, 273, 309 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1, 2 Điều 213, khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 và các Điều 609, 612, 613, 649, 650, 651 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế; Điều 50, 38, 40, 42, 44 của Luật đất đai năm 2023; Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; khoản 1 Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị định số 70/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ; Án lệ số 26/2018/AL – Trang 178; 179; 180; 188- Quyển II); Văn bản hướng dẫn và áp dụng pháp luật năm 2023 của Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án; Luật thi hành án dân sự.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ông Khuất Văn Đ, chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây.

Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, cụ thể như sau:

  • Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Khuất Thị L
  • Xác định hợp đồng tặng cho Ông Khuất Văn Đ tài sản của cụ Bùi Thị M dưới dạng “Văn bản cho tài sản” lập ngày 19/6/1996 có hiệu lực một phần.
  • Xác định tài sản của vợ chồng cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M để lại tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội gồm:

– Thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất 74,4 m2, trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ.

– Diện tích đất làm lối đi chung là 47,9 m2.

Nay được chuyển thành Lô đất số T- Khu M – Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 (kèm theo số tiền bồi thường đất 744.000.000đ); và diện tích đất làm lối đi chung là 47,9 m2 (được bồi thường bằng tiền là 482.000.000đ). Sau khi trừ khoản tiền 402.000.000đ tiền đất phải nộp vào ngân sách Nhà nước, giá trị còn lại là 4.279.528.000 đồng.

Trong đó:

+ 9/16 thuộc quyền của cụ Bùi Thị M là 2.407. 234.500 đồng, đã tặng cho Ông Khuất Văn Đ toàn bộ ngày 19/6/1996.

+7/16 thuộc di sản thừa kế của cụ N là 1.872.293.500 đồng.

  • Xác định thời điểm mở thừa kế của cụ Khuất Văn N là năm 1972, không có di chúc, thừa kế được chia theo luật, di sản của cụ N để lại 1.872.293.500 đồng, được chia cho 7 thừa kế, mỗi thừa kế được hưởng 267.470.500đ (hai trăm sáu mươi bẩy triệu, bốn trăm bẩy mươi nghìn, năm trăm đồng). Thời điểm mở thừa kế của cụ Bùi Thị M là năm 2002 không còn di sản.
  • Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Khuất Văn N gồm: Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T, Ông Khuất Văn H, Ông Khuất Văn Đ, Bà Khuất Thị Q, Bà Khuất Thị H và Bà Khuất Thị L
  • Xác định Ông Khuất Văn T chết năm 2011- Người nhận kỷ phần thừa kế của ông T gồm vợ ông T và các con của ông T.
  • Xác định Ông Khuất Văn H chết năm 2021- Người nhận kỷ phần thừa kế của ông H gồm vợ ông H và các con của ông H
  • Xác định Bà Khuất Thị Q chết năm 1987- Người nhận kỷ phần thừa kế của bà Q gồm chồng bà Q và các con của bà Q (Do chồng bà Q là ông V chết năm 2018) nên các con của bà Q được hưởng.
  • Chia phần giá trị di sản bằng tiền bồi thường bao gồm:

* Khoản tiền 744.000.000 đồng (Khoản tiền bồi thường thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất 74,4 m2);

* Khoản tiền 482.000.000 đồng (Khoản tiền bồi thường diện tích đất lối đi chung 47,9 m2);

Các thừa kế mỗi kỷ phần được hưởng tổng cộng hai khoản trên gồm:

– Ông Khuất Văn N được hưởng 175.142.700 đồng, (Người đại diện cho ông N theo ủy quyền là chị Khuất Thị Thu H);

– Bà Khuất Thị H được hưởng 175.142.700 đồng;

– Bà Khuất Thị L được hưởng 175.142.700 đồng;

– Bà Nguyễn Thị L và anh Khuất Hồng G (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông H) được hưởng chung 175.142.700 đồng;

– Bà Trần Thị T, anh Khuất Văn H, anh Khuất Văn S, chị Khuất Thị Bích N (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T, bà T đại diện theo ủy quyền) được hưởng chung 175.142.700 đồng;

Anh Kiều Bình H, chị Kiều Thị P, chị Kiều Thị Y, anh Kiều Bình C, chị Kiều Thị L, chị Kiều Thị T, anh Kiều Bình T (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q, người đại diện theo ủy quyền là chị L) được hưởng chung 175.142.700 đồng;

– Ông Khuất Văn Đ được hưởng 175.142.700 đồng.

Uỷ ban nhân dân thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội trực tiếp thực hiện việc chi trả các khoản tiền trên cho các thừa kế.

Các thừa kế đều phải có nghĩa vụ chung nộp số tiền 402.000.000 đồng (Bốn trăm linh hai triệu đồng) tiền sử dụng đất vào ngân sách Nhà nước thông qua UBND thị xã Sơn Tây, cụ thể:

– Ông Khuất Văn N phải nộp 57.428.571 đồng (Người đại diện cho ông Nghĩa theo ủy quyền là chị Khuất Thị Hà nộp);

– Bà Khuất Thị H nộp 57.428.571 đồng;

– Bà Khuất Thị L nộp 57.428.571 đồng;

– Bà L và anh G (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của ông H) cùng chung nộp 57.428.571 đồng;

– Bà T, anh H, anh S, chị N (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của ông T, bà T) cùng chung nộp 57.428.571 đồng;

– Anh H, chị P, chị Y, anh C, chị L, chị T, anh T (Là người hưởng kỷ phần thừa kế của bà Q) cùng chung nộp 57.428.571 đồng;

– Ông Khuất Văn Đ phải nộp 57.428.571 đồng.

Chia phần di sản còn lại bằng hiện vật:

Ông Khuất Văn Đ được quyền sử dụng Lô đất số T – Khu M – Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2, có giá trị là 3.455.528.000 đồng. Ông Khuất Văn Đ có nghĩa vụ thanh toán lại giá trị bằng tiền cho các thừa kế khác gồm:

– Ông Khuất Văn N là 149.756.371 đồng (Người đại diện cho ông Nghĩa theo ủy quyền là chị H);

– Bà Khuất Thị L là 149. 756.371 đồng;

– Bà L và anh G (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông H) được thanh toán chung là 149. 756.371 đồng;

– Bà T, anh H, anh S, chị N (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T, bà T đại diện theo ủy quyền) được thanh toán chung là 149.756.371 đồng;

Anh H, chị P, chị Y, anh C, chị L, chị T, anh T (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q, người đại diện theo ủy quyền là chị L) được thanh toán chung là 149756.371 đồng.

  • Ghi nhận sự tự nguyện của Bà Khuất Thị H cho Ông Khuất Văn Đ được hưởng kỷ phần thừa kế được chia từ giá trị trong phần di sản là Lô đất số T Khu 02 Khu nhà ở Thuần nghệ. Theo đó Ông Khuất Văn Đ không phải thanh toán cho bà Hiền khoản tiền là 149.756.371 đồng.
  • Ghi nhận sự tự nguyện của các đồng thừa kế không yêu cầu Tòa án xem xét chia tài sản (Nhà cấp 4) trên thửa đất số X; và không yêu cầu xem xét chia phần lợi tức (Khoản tiền) phát sinh từ việc vợ chồng ông Đ, bà H làm nhà tạm trên diện tích đất làm lối đi chung để cho thuê.
  • Trách nhiệm do chậm thi hành án trả tiền:

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

  • Kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây chỉnh sửa, thay đổi đối với đối tượng thu hồi đất và đối tượng được phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phần có liên quan đến di sản thừa kế được xem xét giải quyết trong vụ án này theo trình tự, qui định của pháp luật.

Sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật Ông Khuất Văn Đ có quyền, nghĩa vụ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành thủ tục sang tên quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật.

  • Về chi phí tố tụng: Ông Khuất Văn N, Bà Khuất Thị H, Ông Khuất Văn Đ, bà Nguyễn Thị L, bà Trần Thị T và chị Kiều Thị L mỗi người phải thanh toán cho Bà Khuất Thị L 3.142.000 đồng tiền chi phí tố tụng.
  • Quyền, nghĩa vụ khi thi hành án dân sự:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí:

Án phí sơ thẩm:

Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho: Ông Khuất Văn N, Bà Khuất Thị L, Bà Khuất Thị H, bà Trần Thị T, Ông Khuất Văn Đ, bà Nguyễn Thị L, ông Kiều Bình H, bà Kiều Thị P.

Anh G phải nộp 6.687.000 đồng (sáu triệu sáu trăm tám mươi bẩy nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Anh H, anh S và chị N mỗi người phải nộp 3.343.000 đồng (ba triệu ba trăm bốn mươi ba nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Chị P, anh C, chị L, chị T và anh T mỗi người phải nộp 1.911.000 đồng (một triệu chín trăm mười một nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án phí phúc thẩm: Ông Khuất Văn Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Liên hệ Luật sư hỗ trợ thủ tục tại Tòa án: Khách hàng có nhu cầu tư vấn pháp luật thừa kế, mời Luật sư tham gia bảo vệ trong vụ án thừa kế tại Tòa án vui lòng liên hệ qua một trong các phương thức sau:

  • Tư vấn qua điện thoại: 0329.016.333 (Zalo)
  • Tư vấn trực tiếp tại văn phòng: P202, N3B, Lê Văn Lương, Thanh Xuân, Hà Nội.
024 3755 8809