Quy định của pháp luật hình sự về vấn đề xóa án tích

Chia sẻ nếu thấy bài hay

Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. BLHS quy định có 02 loại xóa án tích: đương nhiên được xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án, cụ thể:

(1) Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI của BLHS (các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh). Điểm mới của BLHS năm 2015 là quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với BLHSnăm 1999 theo hướng kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án[1]; đồng thời, rút ngắn thời hạn để được xóa án tích theo hướng còn 02 năm (đối với trường hợp bị phạt tù đến 05 năm); 03 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm) và 05 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án) (khoản 2, 3 Điều 70).

Đặc biệt, BLHS năm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (LLTP)cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định củaBLHS[2]. Tại Khoản 4, điều 70, BLHS năm 2015, quy định: Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu LLTP xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này. Đồng thời, khoản 1 Điều 369 của Bộ luật tố tụng hình sựnăm 2015 quy định: Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 của BLHS thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp Phiếu LLTP là họ không có án tích.

(2) Xóa án tích theo quyết định của Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về các tội quy định tại

Chương XIII và Chương XXVI của BLHS. Khác với trường hợp đương nhiên được xóa án tích, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội nêu trên (Điều 71 BLHS 2015).Người bị kết án phải có đơn gửi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Nếu xét thấy đủ điều kiện, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định xóa án tích; trường hợp chưa đủ điều kiện thì quyết định bác đơn xin xóa án tích (khoản 2 Điều 369 Bộ luật tố tụng hình sự).

Ngoài ra, BLHS 2015 (Điều 72) cũng quy định về việc xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, theo đó trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.