Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi

(Ảnh minh họa - Nguồn: hocluat.vn)

Chia sẻ nếu thấy bài hay

Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) vừa có Công văn gửi đến VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam và Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị đóng góp ý kiến vào Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử xin trân trọng giới thiệu nội dung của Dự thảo và mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của quý vị độc giả.

Giải thích từ ngữ

Dự thảo giải thích từ ngữ “Mua bán người” là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây: Chuyển giao người để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; Tiếp nhận người để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; Chuyển giao người để người khác bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; iếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi hướng dẫn tại các điểm a, b, c hoặc d khoản này.

“Mua bán người dưới 16 tuổi” là một trong các hành vi sau đây: Chuyển giao người dưới 16 tuổi để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; Chuyển giao người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi hướng dẫn tại các điểm a, b, c hoặc d khoản này.

Về “thủ đoạn khác” quy định tại khoản 1 Điều 150 của BLHS là trường hợp người phạm tội dùng các thủ đoạn như: bắt cóc, lừa gạt, cho nạn nhân uống thuốc ngủ, uống rượu say; cho nạn nhân sử dụng thuốc mê; đầu độc nạn nhân; lợi dụng quyền hạn, tình thế dễ bị tổn thương của nạn nhân…  để thực hiện một trong các hành vi hướng dẫn tại các điểm a, b, c hoặc d khoản 2 Điều này.

“Để bóc lột tình dục” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 150 và điểm b khoản 1 Điều 151 của BLHS là trường hợp chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác nhằm phục vụ cho hoạt động  tình dục, như bán dâm, sử dụng nạn nhân để sản xuất ấn phẩm khiêu dâm, trình diễn khiêu dâm hoặc làm nô lệ tình dục.

Ví dụ: Chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác rồi đưa họ đến các ổ mại dâm hoặc tổ chức cho họ bán dâm hoặc tiếp nhận người khác để phục vụ nhu cầu tình dục của mình.

“Để cưỡng bức lao động” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 150 và điểm b khoản 1 Điều 151 của BLHS là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ.

“Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 150 và điểm b khoản 1 Điều 151 của BLHS là trường hợp chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác nhằm lấy một phần của cơ thể của họ.

Ví dụ: Nguyễn Văn A đã chuyển giao Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn B để B lấy giác mạc của C (trên thực tế B chưa có hành vi lấy giác mạc).

“Vì mục đích vô nhân đạo khác” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 150 và điểm b khoản 1 Điều 151 của BLHS là việc người phạm tội nhằm sử dụng nạn nhân làm nô lệ, lao động khổ sai, để thanh toán nợ, làm thí nghiệm; buộc nạn nhân phải đi ăn xin; để quay phim, chụp ảnh, vẽ tranh ảnh khiêu dâm, đồi trụy hoặc sử dụng nạn nhân vào các mục đích tàn ác, dã man khác.

Về một số tình tiết định khung hình phạt

Tình tiết “Có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 150 và điểm a khoản 3 Điều 151 của BLHS là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ và phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia thực hiện hành vi phạm tội, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.

Tình tiết “Vì động cơ đê hèn” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 150 và điểm g khoản 2 Điều 151 của BLHS là trường hợp phạm tội với động cơ đê tiện, thấp hèn, ích kỷ, thể hiện sự bội bạc, phản trắc, hèn nhát. Người phạm tội nhằm mục đích trả thù hoặc để khống chế nạn nhân và người thân thích của nạn nhân.

Ví dụ: Do có thù tức cá nhân, B đã dụ dỗ con gái của A rồi bán sang nước ngoài.

Tình tiết “Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 của BLHS là đã đưa nạn nhân ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 150 và điểm e khoản 2 Điều 151 của BLHS là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội mua bán người từ 02 lần trở lên nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ví dụ: Ngày 15/6/2018, Nguyễn Văn A có hành vi mua bán người; đến ngày 20/7/2018, Nguyễn Văn A lại có hành vi mua bán người và bị bắt giữ. Cả hai lần phạm tội trên, Nguyễn Văn A đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người.

Trường hợp người phạm tội vừa thuộc trường hợp phạm tội từ 02 lần trở lên quy định tại điểm e khoản 2 Điều 150 của BKHS vừa thuộc trường hợp phạm tội đối với 06 người trở lên quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 150 của BLHS thì áp dụng điểm đ khoản 3 Điều 150 của BLHS để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 150 và điểm b khoản 3 Điều 151 của BLHS là trường hợp người phạm tội mua bán người từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy các việc mua bán người làm nghề sinh sống, lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc mua bán người làm nguồn sống chính.

Đối với trường hợp phạm tội từ 05 lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng các tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần”, “đối với nhiều người”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “có tính chất chuyên nghiệp”.

Tình tiết “Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm đ khoản 3 Điều 151 của BLHS là trường hợp chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác và đã lấy một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau của nạn nhân (chủ yếu là các bộ phận mà y học có thể thay thế, như: giác mạc, thận, gan…).

Ví dụ: Nguyễn Văn A đã chuyển giao Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn B. B đã lấy giác mạc của C để thay cho người khác.

Tình tiết “Làm nạn nhân chết hoặc tự sát” quy định tại điểm d khoản 3 Điều 150 và điểm đ khoản 3 Điều 151 của BLHS là trường hợp chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; để bóc lột tình dục; để cưỡng bức lao động; để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc sử dụng vào mục đích vô nhân đạo khác dẫn đến nạn nhân chết hoặc tự sát.

Ví dụ 1: Nguyễn Văn A đã chuyển giao Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn B. B đã lấy một phần gan của C để thay cho người khác, nhưng do không bảo đảm kỹ thuật, vệ sinh dẫn đến C bị chết do nhiễm trùng.

Ví dụ 2: Nguyễn Văn A lừa bán Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn B để C phục vụ hoạt động mại dâm trong quán Karaoke của B. Vì uất ức C đã tự sát.

Truy cứu trách nhiệm hình sự một số trường hợp cụ thế theo Điều 150

Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái phép

Người sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái phép bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 150 của BLHS nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Người môi giới dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác để buộc người khác kết hôn với người nước ngoài và đã giao người đó cho người nước ngoài để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

Người môi giới biết hoặc có khả năng để biết mục đích của người nước ngoài là thông qua hoạt động xem mặt, chọn vợ (hoặc chồng) hoặc kết hôn để đưa người được chọn ra nước ngoài bóc lột sức lao động, bóc lột tình dục hoặc bán cho người khác nhưng vẫn tiến hành môi giới để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác của người nước ngoài.

Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp sử dụng thủ đoạn đưa người đi lao động nước ngoài trái phép

Người sử dụng thủ đoạn đưa người đi lao động nước ngoài trái phép bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 150 của BLHS nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Người môi giới, người đưa người đi lao động nước ngoài biết hoặc có khả năng để biết người lao động (từ đủ 16 tuổi trở lên) ra nước ngoài sẽ bị bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác (như: người bị đưa ra nước ngoài bị buộc phải làm việc trong môi trường độc hại, không bảo đảm an toàn lao động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe; phải làm việc mà không được trả lương; bị buộc phải hoạt động mại dâm) nhưng vẫn lừa gạt hoặc ép buộc người lao động và giao họ cho người khác ở nước ngoài để lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác.

Người môi giới sử dụng thủ đoạn môi giới đưa lao động ra nước ngoài để chuyển giao người lao động cho phía nước ngoài bán người lao động cho người khác.

Người sử dụng thủ đoạn môi giới đưa người đi lao động ở nước ngoài để lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (sau khi nhận tiền của người lao động đã chiếm đoạt và bỏ trốn, không thực hiện việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài) thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người nhưng tùy từng trường hợp cụ thể có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu có đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm khác.

Người tổ chức, cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài không nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc không vì mục đích vô nhân đạo khác thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người nhưng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép quy định hoặc tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép nếu có đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm khác.

Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp người phạm tội đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân

Phương án 1: Trường hợp người phạm tội đã lấy đi bộ phận cơ thể quyết định sự sống của nạn nhân (như tim, não…) làm nạn nhân chết thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS (giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân).

Ví dụ: Nguyễn Văn A đã chuyển giao Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn B. B đã lấy tim của C để thay cho người khác. Trong trường hợp này, A và B phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo điểm h khoản 1 Điều 123  BLHS (giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân).

Trường hợp người phạm tội lấy bộ phận cơ thể không tách rời sự sống của nạn nhân, không làm nạn nhân chết (như lấy 01 quả thận, 01 lá phổi…) thì bị truy cứu trách nhiệm về tội mua bán người theo điểm b khoản 3 Điều 150 của BLHS. Trong trường hợp này, nếu sau đó nạn nhân chết do bị nhiễm trùng hoặc nạn nhân phẫn uất mà tự sát thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 3 Điều 150 của BLHS.

Phương án 2: Trường hợp người phạm tội đã lấy đi bộ phận không thể tách rời sự sống của nạn nhân (như tim, não…), làm nạn nhân chết thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo điểm h khoản 1 Điều 123 của BLHS.

Truy cứu trách nhiệm hình sự một số trường hợp cụ thế theo Điều 151

Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật 

Người biết người khác thực sự có nhu cầu nuôi con nuôi (do hiếm muộn hoặc có lòng yêu trẻ) đã giới thiệu người đó với người muốn cho con của chính họ đi làm con nuôi vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có điều kiện nuôi dưỡng đứa trẻ, mong muốn đứa trẻ được nuôi dưỡng tốt hơn và đã nhận một khoản tiền, đồng thời người môi giới cũng được nhận một khoản tiền cho việc môi giới, thì người môi giới, người cho con mình đi làm con nuôi và người nhận con nuôi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 151 của BLHS.

Người sử dụng thủ đoạn môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 151 của BLHS nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người môi giới biết hoặc có khả năng biết việc nhận nuôi con nuôi là nhằm bóc lột, cưỡng bức lao động đối với người dưới 16 tuổi hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác nhưng đã sử dụng thủ đoạn môi giới nuôi con nuôi để chuyển giao nạn nhân cho người khác để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

b) Người môi giới nuôi con nuôi biết hoặc có khả năng biết mục đích của người nhận nuôi con nuôi là sau khi nhận con nuôi sẽ bán nạn nhân cho người khác.

c) Người nhận nuôi con nuôi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

d) Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để môi giới nhận nuôi con nuôi trái phép (không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho, nhận nuôi con nuôi) hoặc tạo điều kiện cho việc môi giới, nhận nuôi con nuôi trái phép mà biết hoặc có khả năng biết mục đích của người nhận nuôi con nuôi là nhằm bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác.

đ) Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để môi giới nhận nuôi con nuôi trái phép (không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho, nhận nuôi con nuôi) hoặc tạo điều kiện cho việc môi giới, nhận nuôi con nuôi trái phép, nhưng không biết người nhận nuôi con nuôi nhằm bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc có mục đích trái pháp luật khác thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi. Tùy từng trường hợp cụ thể, người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến người khác để trục lợi hoặc tội danh khác theo quy định của BLHS.

Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội

Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó độc lập với nhau thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội độc lập mà người đó đã thực hiện. Khi xét xử, Tòa án áp dụng Điều 55 của BLHS để quyết định hình phạt chung.

Ví dụ: Một người mua người dưới 16 tuổi, sau đó lại thực hiện một trong các hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 151 và tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm quy định tại Điều 147 của BLHS. Khi xét xử trường hợp này, Tòa án quyết định mức hình phạt tương ứng đối với từng tội, sau đó quyết định hình phạt chung cho cả hai tội theo quy định tại Điều 55 của BLHS.

Nguồn: Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử (http://tapchitoaan.vn).

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.