Áp dụng tình tiết giảm nhẹ nào với trường hợp trả lại giá trị tài sản trộm cắp?

Chia sẻ nếu thấy bài hay

Liệu việc bố, mẹ trả thay cho người trộm cắp tài sản không phải là bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả mà là nghĩa vụ hoàn trả tiền cho chủ sở hữu có phù hợp?

 

Nội dung vụ việc:

Ngày 02/01/2018, Nguyễn Văn A trộm cắp 01 chiếc xe máy có giá trị 5.000.000 đồng. Sau khi trộm cắp được tài sản thì Nguyễn Văn A đem đi cầm cố tài sản cho anh B được 6.000.000 đồng.

Quá trình theo dõi, B biết là tài sản do phạm pháp mà có nên mang nộp cho cơ quan điều tra. A tiêu xài hết số tiền trên và về nói với bố, mẹ về việc trộm cắp tài sản. Biết sự việc, gia đình A đã bồi thường cho anh B. Bị hại, người liên quan không có ý kiến gì về bồi thường dân sự.

 

Trong giai đoạn xét xử, Tòa án áp dụng khoản 2, Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”, mà không áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015: “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”, với lý do: Đây là trách nhiệm của đương sự phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra, việc bố, mẹ A trả tiền cho anh B không phải là bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả mà đây là nghĩa vụ hoàn trả tiền cho người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Qua nghiên cứu Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 02/5/2006 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao và thực tiễn xét xử, tôi cho rằng: Theo quy định tại điểm b, đ tiểu mục 1.1, Mục 1 Nghị quyết số 01/2006 hướng dẫn về tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” quy định tại điểm b, khoản 1, điều 46 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tương ứng là điểm b, khoản 1, Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) thì trong trường hợp này A là người chưa đủ 18 tuổi nên việc A tác động đến gia đình để bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại, người liên quan đủ căn cứ để áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) cho A. Vì vậy, áp dụng khoản 2, Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với A là chưa phù hợp. Theo tôi, cần áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.

Mong nhận được ý kiến trao đổi của quý đồng nghiệp và bạn đọc.

Nguồn: Tạp chí Kiểm sát (kiemsat.vn)

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.